Sáng 26/11, tại Hà Nội, Cục Thủy sản và Kiểm ngư (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) phối hợp cùng Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (UNDP) và Đại sứ quán Canada tại Việt Nam tổ chức Hội nghị Bảo vệ môi trường trong các hoạt động thủy sản năm 2025.
Tàu thuyền cập cảng Cà Ná (tỉnh Khánh Hòa). Ảnh minh họa: Công Thử/TTXVN
Hội nghị nhằm sơ kết 3 năm (giai đoạn 2022-2025) triển khai Kế hoạch của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (nay là Bộ Nông nghiệp và Môi trường) thực hiện Quyết định số 911/QĐ-TTg ngày 29/7/2022 của Thủ tướng Chính phủ về Đề án bảo vệ môi trường trong hoạt động thủy sản giai đoạn 2021 - 2030, đồng thời thảo luận định hướng và giải pháp cho giai đoạn 2026 - 2030 (Đề án 911).
Theo Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Phùng Đức Tiến, ngành thủy sản đã trở thành một trong những ngành kinh tế quan trọng, mang lại giá trị xuất khẩu lớn, là một trong 5 ngành kinh tế biển then chốt trong Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2030. Tuy nhiên, ngành sản xuất vẫn dựa vào tài nguyên thiên nhiên và hệ sinh thái.
Một vấn đề đã và đang trở thành nguy cơ hiện hữu cho các hoạt động thủy sản hiện nay chính là ô nhiễm môi trường. Ngành thủy sản không chỉ chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ ô nhiễm mà trong một số trường hợp còn có thể là nguồn gây ô nhiễm nếu không được quản lý, giám sát chặt chẽ. Điều này ảnh hưởng đến chất lượng nguồn lợi, hệ sinh thái, sinh kế của ngư dân, cũng như năng lực cạnh tranh của sản phẩm thủy sản Việt Nam trên thị trường thế giới.
Việc tăng cường kiểm soát chất thải, đổi mới công nghệ, chuyển đổi số… cùng với huy động sự tham gia của toàn xã hội sẽ tạo nền tảng quan trọng để hình thành các sản phẩm thủy sản Việt Nam chất lượng, giá trị cao với chi phí hợp lý, vừa mang lại hiệu quả kinh tế, vừa không gây tổn hại đến môi trường và hệ sinh thái tự nhiên.
Đại sứ Đặc mệnh toàn quyền Canada tại Việt Nam James Nickel nhấn mạnh, chăm sóc đại dương cũng chính là chăm sóc tương lai của chúng ta. Canada tự hào sát cánh cùng Việt Nam trong việc bảo vệ biển và hỗ trợ các cộng đồng phụ thuộc vào biển. Một đại dương khỏe mạnh là nền tảng cho sinh kế vững mạnh và một nền kinh tế biển xanh, bền vững, đảm bảo cho các thế hệ tương lai được thừa hưởng hệ sinh thái biển phong phú và các cộng đồng ven biển thịnh vượng.
Cục Thủy sản và Kiểm ngư cho biết, thực hiện Đề án 911, ngành thủy sản đã hoàn thiện nhiều quy định pháp luật về bảo vệ môi trường, đồng thời ban hành các hướng dẫn kỹ thuật quan trọng về kiểm soát nguồn thải và thu gom rác thải nhựa tại tàu cá, cảng cá. Công tác phòng ngừa, quản lý ô nhiễm và quan trắc môi trường đất, nước, trầm tích được tổ chức đồng bộ với mạng lưới quan trắc trải rộng từ Trung ương đến địa phương, phục vụ hiệu quả trong quản lý. Bên cạnh đó, nhiệm vụ bảo tồn và phát triển nguồn lợi thủy sản được chú trọng thông qua việc hình thành các chương trình và quy hoạch quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn 2050, góp phần phục hồi các hệ sinh thái quan trọng.
Đáng chú ý, nhiều doanh nghiệp đã chủ động triển khai mô hình kinh tế tuần hoàn, kinh tế xanh trong sản xuất thủy sản, tạo động lực thúc đẩy phát triển bền vững toàn ngành. Theo Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam, một số doanh nghiệp bắt đầu thí điểm đánh giá vòng đời sản phẩm (LCA) để xác định “điểm nóng” phát thải - thường nằm ở khâu thức ăn nuôi trồng (trên 50% tổng phát thải). Hầu hết nhà máy chế biến thủy sản xuất khẩu lớn đã lắp hệ thống xử lý đạt QCVN 11:2015 trước khi xả thải.
Các doanh nghiệp cũng có xu hướng dùng chế phẩm sinh học thay hóa chất trong xử lý môi trường ngày càng phổ biến. Các bao bì thải bỏ hầu hết đều được thu gom đưa vào tái chế. Đặc biệt, ngành phụ phẩm (collagen, gelatin, dầu cá... từ phế liệu: đầu/vỏ tôm, da cá, mỡ cá...) đã trở thành một ngành công nghiệp thực thụ, đóng góp hàng trăm triệu USD/năm, đưa Việt Nam thành điểm sáng về kinh tế tuần hoàn trong khu vực.
Cùng với Bộ Nông nghiệp và Môi trường, các bộ. ngành như: Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Công an, các hiệp hội, viện trường, tổ chức phi chính phủ và doanh nghiệp đã đồng hành trong nhiều hoạt động giám sát môi trường, tuyên truyền ngư dân, đổi mới công nghệ sản xuất và hoàn thiện cơ chế quản lý.
Mặc dù đạt được một số kết quả quan trọng, nhiều nhiệm vụ của đề án vẫn chưa được triển khai như yêu cầu, gồm kiểm kê và đánh giá nguồn vốn tự nhiên thủy sản phục vụ phát triển bền vững, cùng việc hướng dẫn, kiểm tra và xây dựng năng lực phòng ngừa, cảnh báo sự cố môi trường trong ngành. Đây là những nội dung cần được ưu tiên thực hiện hoặc điều chỉnh trong giai đoạn tới.
Thực tiễn cho thấy công tác bảo vệ môi trường trong ngành thủy sản vẫn tồn tại nhiều hạn chế. Việc điều tra, đánh giá chất thải phát sinh mới được thực hiện một phần, chưa đủ tổng thể để xác định chính xác mức độ tác động đến môi trường. Hệ thống và thiết bị xử lý chất thải, đặc biệt ở quy mô nhỏ, chưa được đầu tư đúng mức. Bên cạnh đó, biến đổi khí hậu, nước biển dâng và thiên tai bất thường tiếp tục tạo ra nhiều thách thức. Hay nguồn lực tài chính và nhân lực dành cho bảo vệ môi trường còn hạn chế…
Tại hội nghị, để đề án phát huy hiệu quả trong giai đoạn 2026-2030, các đại biểu cho rằng, nhà nước cần ban hành cơ chế, chính sách để thúc đẩy, khuyến khích sự tham gia của tất cả các bên; trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất; hợp tác công tư (PPP) trong bảo vệ môi trường ngành thuỷ sản; thúc đẩy mô hình kinh tế tuần hoàn, kinh tế xanh; công nghệ trong hoạt động sản xuất, tái chế, xử lý chất thải; xây dựng năng lực phòng ngừa, cảnh báo nguy cơ sự cố môi trường trong ngành thuỷ sản…