Sáng 5/12, giải trình, tiếp thu các ý kiến đại biểu Quốc hội nêu trong phiên thảo luận về chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia về nông thôn mới, giảm nghèo bền vững, phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi đến năm 2035, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Trần Đức Thắng khẳn định: Chủ trương của Chính phủ tích hợp ba chương trình mục tiêu quốc gia thành một chương trình nhằm mục tiêu cao nhất là làm cho người dân có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, đặc biệt là vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.
Tổng Bí thư Tô Lâm và Chủ tịch nước Lương Cường dự phiên họp. Ảnh: Doãn Tấn/TTXVN
Kéo dài thời gian hỗ trợ đến năm 2035
Đa số đại biểu Quốc hội đồng tình và tán thành vệc hợp nhất 3 Chương trình mục tiêu quốc gia (CTMTQG) để khắc phục các tồn tại, hạn chế của giai đoạn trước. Tuy nhiên, cũng có ý kiến còn băn khoăn việc sáp nhập có thể sẽ làm giảm chính sách và nguồn lực đầu tư cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi (DTTS&MN).
Bộ trưởng Trần Đức Thắng cho rằng, chủ trương hợp nhất thành 1 chương trình thể hiện quyết tâm của Chính phủ với mục tiêu làm cho người dân có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, đặc biệt là vùng đồng bào DTTS&MN.
Để thực hiện mục tiêu này, Bộ trưởng Trần Đức Thắng cho rằng, ngoài các mục tiêu chung sẽ tiếp tục tập trung ưu tiên xây dựng nông thôn mới với giảm nghèo bền vững và phát triển kinh tế xã hội đồng bào DTTS&MN. Nâng cao hiệu quả thực thi, tránh chồng chéo, trùng lặp chính sách; phân cấp, phân quyền triệt để cho địa phương. Kéo dài thời gian hỗ trợ đến năm 2035 (thay vì đến năm 2030) như chương trình hiện hành để tập trung nguồn lực dài hạn đầu tư đồng bộ và hiệu quả hơn. Việc tích hợp không làm giảm chính sách, không thu hẹp phạm vi hỗ trợ mà tạo điều kiện tập trung và ưu tiên hơn cho vùng đồng bào DTTS&MN, khu vực hiện là lõi nghèo của cả nước.
Trong phiên thảo luận, một số đại biểu Quốc hội băn khoăn đề nghị làm rõ cơ sở xác định mục tiêu bảo đảm khả thi, phù hợp với nguồn lực và bối cảnh của giai đoạn 2026 - 2030, tránh đặt mục tiêu quá rộng; Bộ trưởng Trần Đức Thắng cho biết: Mục tiêu có 65% số xã đạt chuẩn nông thôn mới, trong khi giai đoạn 2021 - 2025 cả nước đã đạt gần 80%. Trước thời gian thực hiện chính quyền địa phương hai cấp, cả nước đã có 79,3% số xã đạt chuẩn nông thôn mới theo Bộ tiêu chí quốc gia giai đoạn 2021 - 2025.
Theo kết quả rà soát của các địa phương, sau sáp nhập cả nước có khoảng 65,6% số xã có khả năng đạt chuẩn nông thôn mới theo tiêu chí giai đoạn 2021 - 2025. Hiện nay Bộ tiêu chí nông thôn mới giai đoạn 2026 - 2030 đã hoàn thiện các thủ tục và sẽ trình Thủ tướng Chính phủ ban hành trong tháng 12 năm 2025 theo hướng kế thừa, bổ sung và nâng cao Bộ tiêu chí giai đoạn 2021 - 2025.
Theo rà soát của Bộ Nông nghiệp và Môi trường, hiện nay có khoảng 42% số xã cơ bản đạt qui định của Bộ tiêu chí mới giai đoạn 2026 - 2030 và dự kiến số xã này sẽ được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới trong năm 2026 - 2027. Số xã còn lại chủ yếu ở vùng khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi khoảng 25% sẽ được tập trung ưu tiên nguồn lực để đạt nông thôn mới đến năm 2030. “Như vậy mục tiêu phấn đấu đến năm 2030 có khoảng 65% số xã đạt chuẩn nông thôn mới là khả thi”, Bộ trưởng Trần Đức Thắng khẳng định.
Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Trần Đức Thắng giải trình, làm rõ một số vấn đề đại biểu Quốc hội nêu. Ảnh: Doãn Tấn/TTXVN
Ưu tiên nguồn lực cho chương trình
Về mục tiêu tỷ lệ giảm nghèo đa chiều duy trì giá từ 1 - 1,5 %/năm và 100% xã nghèo thoát khỏi tình trạng nghèo. Bộ trưởng Trần Đức Thắng cho biết: Mục tiêu giảm tỷ lệ nghèo đa chiều được khẳng định tại Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng và Chỉ thị số 05 của Ban Bí thư khóa XIII về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác giảm nghèo bền vững đến năm 2030.
Thực tế đến cuối năm 2025, tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn đa chiều còn khoảng 0,9% - 1%, bình quân giai đoạn 2021 - 2025 giảm khoảng trên 1%/năm. Dự kiến tỷ lệ nghèo đa chiều theo chuẩn nghèo mới giai đoạn 2026 - 2030 còn khoảng 9,6%, tương đương với giai đoạn 2022 - 2025. Như vậy, mục tiêu trên là phù hợp với chủ trương của Đảng, kết quả thực tiễn và có tính khả thi trong điều kiện kinh tế xã hội của đất nước trong giai đoạn 2026 - 2030.
Về nguồn vốn đầu tư cho chương trình, một số đại biểu băn khoăn việc bố trí 100.000 tỷ đồng vốn ngân sách trung ương cho Chương trình là thấp, trong khi đó chính sách, mục tiêu thì cao, khả năng huy động nguồn lực ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi thì khó khăn. Bộ trưởng Trần Đức Thắng đồng tình với ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội nêu, bởi Chương trình có phạm vi, quy mô địa bàn bao phủ cả nước với gần như toàn bộ các nội dung, nhiệm vụ về phát triển kinh tế xã hội của nông thôn, trong đó ưu tiên vùng đồng bào DTTS&MN. Do đó, mức vốn ngân sách trung ương trước mắt bố trí 100.000 tỷ đồng là hạn chế.
“Tuy nhiên, trong giai đoạn 2026 - 2030, bên cạnh chương trình này thì còn 4 chương trình mục tiêu quốc gia khác cùng triển khai trên địa bàn như ý kiến của đại biểu Trần Hoàng Ngân (Đoàn ĐBQH TP Hồ Chí Minh) nêu. Các chương trình này có mục tiêu tương đồng với nguồn vốn khoảng 360.000 tỷ đồng. Cùng với đó, chương trình phát triển bền vững vùng đồng bằng sông Cửu Long, chương trình bố trí ổn định dân cư vùng miền núi, địa bàn khó khăn đã được đưa vào dự thảo Nghị quyết Đại hội XIV của Đảng, dự kiến tập trung đầu tư trong giai đoạn 2026 - 2030 và những nguồn vốn khác như: Nguồn tín dụng chính sách xã hội, vốn tín dụng thương mại đầu tư cho nông nghiệp, nông dân, nông thôn, vốn của các doanh nghiệp và huy động đóng góp tự nguyện của cộng đồng, người dân. Để thực hiện được các mục tiêu, nhiệm vụ của chương trình, trong quá trình điều hành, Chính phủ sẽ tiếp tục cân đối ngân sách trung ương để báo cáo Quốc hội ưu tiên bổ sung cho phù hợp với điều kiện thực tế”, Bộ trưởng Trần Đức Thắng cho biết.
Một số ý kiến của đại biểu Quốc hội cho rằng quy định nguồn vốn địa phương 400.000 tỷ đồng là quá lớn, vượt khả năng cân đối của các địa phương, nhất là các địa phương khó khăn. Bộ trưởng Trần Đức Thắng cho biết: Vốn ngân sách địa phương thực hiện là tổng vốn ngân sách địa phương hai cấp của 34 tỉnh, thành phố bố trí cho chương trình, gồm có 7 địa phương tự cân đối và 27 địa phương nhận hỗ trợ từ ngân sách trung ương.
“Đây là một trong những nguồn chủ lực phản ánh vai trò chủ động, trách nhiệm của cấp ủy, chính quyền địa phương trong triển khai thực hiện các mục tiêu của Chương trình trên địa bàn giai đoạn 2021 - 2025. Trong tổng số gần 300.000 tỷ đồng vốn địa phương bố trí thực hiện 3 CTMTQG thì vốn của 16 tỉnh, thành phố tự cân đối ngân sách chiếm khoảng 65%. Đối với 47 tỉnh còn lại, tỷ lệ vốn đối ứng của các địa phương được quy định phù hợp với tỷ lệ nhận hỗ trợ từ ngân sách trung ương và điều kiện thực tế của địa phương. Trong đó các địa phương khó khăn tỷ lệ vốn đối ứng chỉ khoảng 5% so với vốn từ ngân sách trung ương hỗ trợ”, Bộ trưởng Trần Đức Thắng phát biểu.
Cũng theo Bộ trưởng Trần Đức Thắng, tiếp thu ý kiến của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, ý kiến thẩm tra của Hội đồng Ddân tộc và ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội, Chính phủ sẽ tiếp tục rà soát, cân đối để xác định vốn ngân sách của các địa phương cho phù hợp nhất. Một số đại biểu Quốc hội đề nghị làm rõ về nguyên tắc, tiêu chí phân bổ vốn, trong đó ưu tiên cho vùng đồng bào DTTS&MN.
Bộ trưởng Trần Đức Thắng cho biết, nguyên tắc, tiêu chí sẽ được Thủ tướng Chính phủ ban hành, theo đó tập trung ưu tiên phân bổ cao nhất cho địa bàn vùng đồng bào DTTS&MN so với các địa bàn khác, địa phương sẽ quyết định và tự chịu trách nhiệm phân bổ chi tiết đến các dự án để thực hiện các mục tiêu, chỉ tiêu cụ thể của chương trình.
Phó Chủ tịch Quốc hội Vũ Hồng Thanh phát biểu tại phiên họp. Ảnh: Doãn Tấn/TTXVN
Chậm nhất, tháng 1 năm 2026 sẽ ban hành đầy đủ các văn bản hướng dẫn
Nhiều đại biểu Quốc hội đề nghị cần rà soát, làm rõ nội dung đầu tư địa bàn không phù hợp, trùng lặp, không trùng lặp về đầu tư giữa các hợp phần, nội dung các chương trình mục tiêu quốc gia khác. Bộ trưởng Trần Đức Thắng cho biết: Trong quá trình xây dựng chương trình, Chính phủ đã chỉ đạo với nguyên tắc hợp nhất là kế thừa ổn định, không dán đoạn, không bãi bỏ chính sách đang phát huy hiệu quả. Chỉ rà soát, sắp xếp lại theo hướng trọng tâm, rõ địa bàn, đối tượng trách nhiệm.
Theo đó, chương trình được thiết kế với hai hợp phần rõ ràng, hợp phần chung để thực hiện trên phạm vi cả nước và hợp phần đặc thù cho vùng đồng bào DTTS&MN. Mỗi nhiệm vụ cụ thể chỉ bố trí ở một hợp phần trên nguyên tắc rõ nội dung, rõ nguồn lực, rõ thụ hưởng; đồng thời sắp xếp với các CTMTQG khác để không trùng lặp đầu tư, không bỏ sót xã nghèo, địa bàn đặc biệt khó khăn.
Bên cạnh đó, để khắc phục hạn chế về việc chậm ban hành văn bản hướng dẫn, Chính phủ giao Bộ Nông nghiệp và Môi trường chủ trì, phối hợp với Bộ Dân tộc và Tôn giáo và các Bộ, ngành hữu quan thống nhất trình ban hành các văn bản hướng dẫn triển khai Chương trình đảm bảo đồng bộ, rõ ràng về nội dung ngay sau khi Quốc hội phê duyệt chủ trương đầu tư Chương trình.
Dự kiến chậm nhất là trong tháng 1 năm 2026 sẽ ban hành đầy đủ các văn bản hướng dẫn để các địa phương triển khai thực hiện.
Một số đại biểu Quốc hội còn băn khoăn về việc bỏ sót địa bàn, đối tương, đồng thời kiến nghị cần có quy định chuyển tiếp để người dân tiếp tục được hưởng các chính sách. Bộ trưởng Trần Đức Thắng cho rằng: Chương trình tích hợp đã kế thừa đầy đủ chính sách và kết quả đã đạt được trong giai đoạn 2021 - 2025, không bãi bỏ hoặc cắt giảm chính sách đang có hiệu quả, bảo đảm người dân tiếp tục được thụ hưởng đầy đủ, đặc biệt tập trung ưu tiên cho địa bàn xã nghèo vùng đồng bào DTTS&MN.
Bên cạnh đó, Chính phủ đã ban hành Nghị định về phân định vùng DTTS&MN giai đoạn 2026 - 2030 và chuẩn bị bị ban hành Nghị định về chuẩn nghèo đa chiều giai đoạn 2026 - 2030, quyết định về tiêu chí xã nghèo, Bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới các cấp giai đoạn 2026 - 2030 bảo đảm khi chương trình triển khai sẽ không bị khoảng trống về pháp lý; chính sách được chuyển tiếp thông suốt ngay khi được Quốc hội cho phép kéo dài thời gian thực hiện và giải ngân nguồn ngân sách nhà nước của các CTMTQG còn tồn đọng năm 2025, Chính phủ giao các Bộ, ngành chức năng hướng dẫn qui định chuyển tiếp giữa hai giai đoạn.
Về tổ chức thực hiện chương trình, đa số đại biểu Quốc hội tán thành việc giao một cơ quan làm chủ chương trình. Tuy nhiên, để quy định rõ về mô hình quản lý, vai trò của cơ quan chủ chương trình, chủ trì từng hợp phần, nội dung và cơ chế phối hợp, trách nhiệm giải trình. Bộ trưởng Trần Đức Thắng cho biết: Để tạo sự thống nhất, đồng bộ, rõ ràng trong tổ chức triển khai, nhất là xây dựng các văn bản hướng dẫn thực hiện chương trình gắn với trách nhiệm cụ thể, Chương trình được xây dựng theo nguyên tắc một đầu mối chủ Chương trình; các Bộ, ngành chủ trì nội dung gắn với chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước, đồng thời chịu trách nhiệm giải trình.
“Chính phủ đã giao Bộ Nông nghiệp và Môi trường là cơ quan chương trình chịu trách nhiệm tổng hợp báo cáo giải trình. Tiếp thu ý kiến của Ủy ban thường vụ Quốc hội, ý kiến thẩm tra của Hội đồng Dân tộc, ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội, cơ quan chủ trì soạn thảo sẽ nghiên cứu Báo cáo với Chính phủ xem xét, phân định nhiệm vụ giữa các bộ, ngành; nhất là Bộ Dân tộc và Tôn giáo với nguyên tắc cao nhất là hoàn thành được các mục tiêu của chương trình đặt ra”, Bộ trưởng Trần Đức Thắng cho biết.
Nhiều vị đại biểu Quốc hội đề nghị tăng cường phân cấp, phân quyền cho địa phương gắn với mục tiêu, trách nhiệm giải trình; Bộ trưởng Trần Đức Thắng cho biết chương trình được thiết kế theo tinh thần phân quyền tối đa cho địa phương, đi đôi với phân bổ nguồn lực trên nguyên tắc địa phương quyết, địa phương làm, địa phương chịu trách nhiệm. Trung ương thống nhất quản lý, ban hành cơ chế tăng cường kiểm tra, giám sát.
Chính phủ giao tổng vốn địa phương căn cứ điều kiện thực tế, chủ động quyết định phương án phân bổ, lồng ghép nguồn lực đề đạt được mục tiêu chung được giao. Đồng thời thiết lập cơ chế giám sát đa cấp: Trung ương, tỉnh, xã, phát huy vai trò chủ thể của người dân trong giám sát, bảo đảm công khai, minh bạch và nâng cao chất lượng giải trình của chính quyền các cấp.