Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quốc tịch Việt Nam được Quốc hội khóa XV thông qua ngày 24/6/2025. Ngày 1/7/2025, Chính phủ ban hành Nghị định số 191/2025/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp để tổ chức, hướng dẫn thi hành Luật Quốc tịch Việt Nam; Bộ Tư pháp ban hành Thông tư số 12/2025/TT-BTP ngày 1/7/2025 ban hành, hướng dẫn sử dụng, quản lý mẫu sổ quốc tịch và mẫu giấy tờ về quốc tịch. Các văn bản này đều có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1/7/2025.
Quốc hội biểu quyết thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quốc tịch Việt Nam, sáng 24/6/2025. Ảnh: Doãn Tấn/TTXVN
Làm rõ hơn các điểm mới của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quốc tịch Việt Nam, bà Võ Thị Hạnh, Cục hành chính tư pháp, Bộ Tư pháp cho biết: Việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quốc tịch Việt Nam, trong đó "nới lỏng" chính sách cho nhập/trở lại quốc tịch Việt Nam và đơn giản hóa thủ tục hành chính trong lĩnh vực quốc tịch nhằm tiếp tục thể chế hóa kịp thời, đầy đủ các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về công tác người Việt Nam ở nước ngoài, tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho người nước ngoài, cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài về nước đầu tư, sản xuất, kinh doanh, thúc đẩy phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số… Qua đó, góp phần tăng cường khối đại đoàn kết, thúc đẩy chính sách hòa hợp dân tộc và thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao đóng góp vào sự phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới.
Mở rộng điều kiện nhập quốc tịch Việt Nam
Liên quan đến điều kiện được nhập quốc tịch Việt Nam, Luật quy định người xin nhập quốc tịch Việt Nam có vợ hoặc chồng hoặc có con đẻ là công dân Việt Nam có thể được nhập quốc tịch Việt Nam mà không phải đáp ứng các điều kiện: biết tiếng Việt đủ để hòa nhập vào cộng đồng Việt Nam; thời gian thường trú ở Việt Nam từ 5 năm trở lên tính đến thời điểm xin nhập quốc tịch Việt Nam; có khả năng bảo đảm cuộc sống tại Việt Nam.
Người xin nhập quốc tịch Việt Nam thuộc một trong những trường hợp: Có cha đẻ hoặc mẹ đẻ hoặc ông nội và bà nội hoặc ông ngoại và bà ngoại là công dân Việt Nam; có công lao đặc biệt đóng góp cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam; có lợi cho Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; người chưa thành niên xin nhập quốc tịch Việt Nam theo cha hoặc mẹ thì có thể được nhập quốc tịch Việt Nam, không cần các điều kiện: biết tiếng Việt; đang thường trú ở Việt Nam; thời gian thường trú ở Việt Nam từ 5 năm trở lên; có khả năng bảo đảm cuộc sống tại Việt Nam...
Trước đây, theo quy định tại Điều 19 Luật Quốc tịch Việt Nam 2008 (sửa đổi năm 2014), các trường hợp được miễn một số điều kiện nhập quốc tịch về biết tiếng Việt, thời gian cư trú tại Việt Nam từ 5 năm trở lên và khả năng bảo đảm cuộc sống chỉ gồm có vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ hoặc con đẻ của công dân Việt Nam, các trường hợp có công lao đặc biệt đóng góp cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam hoặc có lợi cho Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Chính sách trước đây chủ yếu tập trung vào quan hệ huyết thống và hôn nhân trực tiếp (cha, mẹ, con, vợ/chồng) và một số trường hợp đặc biệt, chưa mở rộng tới thế hệ ông bà và người chưa thành niên xin nhập quốc tịch Việt Nam theo cha, mẹ.
Theo quy định trước đây, người xin nhập quốc tịch Việt Nam bắt buộc phải có tên gọi Việt Nam, tên này do người xin nhập quốc tịch tự lựa chọn, được ghi rõ trong Quyết định cho nhập quốc tịch. Luật Quốc tịch Việt Nam (sửa đổi, bổ sung năm 2025) cho phép người xin nhập quốc tịch Việt Nam, đồng thời xin giữ quốc tịch nước ngoài được quyền lựa chọn tên ghép giữa tên Việt Nam và tên nước ngoài. Quy định này nhằm bảo đảm tạo thuận lợi cho các trường hợp xin nhập/trở lại quốc tịch Việt Nam đồng thời giữ quốc tịch nước ngoài khi sinh sống và làm việc tại các quốc gia mà người đó có quốc tịch.
Người xin nhập quốc tịch Việt Nam có vợ hoặc chồng hoặc con đẻ hoặc cha đẻ hoặc mẹ đẻ hoặc ông nội và bà nội hoặc ông ngoại và bà ngoại là công dân Việt Nam; có công lao đặc biệt đóng góp cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam; có lợi cho Nhà nước Việt Nam; người chưa thành niên xin nhập quốc tịch Việt Nam theo cha hoặc mẹ được giữ quốc tịch nước ngoài nếu đáp ứng các điều kiện sau: Việc giữ quốc tịch nước ngoài phù hợp với pháp luật của nước đó; không sử dụng quốc tịch nước ngoài để gây phương hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân, xâm hại an ninh, lợi ích quốc gia, trật tự, an toàn xã hội của Nhà nước Việt Nam và được Chủ tịch nước cho phép.
Đây là một trong những thay đổi quan trọng nhất của Luật Quốc tịch Việt Nam (sửa đổi, bổ sung năm 2025) so với các quy định trước đây. Theo quy định trước đây, việc nhập quốc tịch phải đáp ứng điều kiện chặt chẽ (đang thường trú tại Việt Nam, người xin nhập quốc tịch Việt Nam đồng thời giữ quốc tịch nước ngoài phải chứng minh được việc thôi quốc tịch nước ngoài dẫn đến quyền lợi của người đó ở nước ngoài bị ảnh hưởng, có công lao đặc biệt đóng góp cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam và có lợi cho Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam…).
Quy định mới tại Điều 19 đã cho phép các trường hợp có cha đẻ hoặc mẹ đẻ hoặc ông bà nội hoặc ông bà ngoại là công dân Việt Nam; nhà đầu tư, nhà khoa học, chuyên gia nước ngoài được nhập quốc tịch Việt Nam với điều kiện thông thoáng (được miễn các điều kiện về thường trú tại Việt Nam, biết tiếng Việt và khả năng bảo đảm cuộc sống tại Việt Nam). Bên cạnh đó, các trường hợp có vợ/chồng/con, cha, mẹ, ông bà nội hoặc ông bà ngoại là công dân Việt Nam, có công lao đặc biệt đóng góp cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam, có lợi cho Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được giữ quốc tịch nước ngoài khi nhập quốc tịch Việt Nam nếu đáp ứng 2 điều kiện nêu trên và được Chủ tịch nước cho phép. Quy định này nhằm tiếp tục thể chế hóa kịp thời, đầy đủ các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về công tác người Việt Nam ở nước ngoài, tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho người nước ngoài, cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài.
Quan điểm của việc xây dựng Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quốc tịch Việt Nam là tiếp tục duy trì nguyên tắc một quốc tịch Việt Nam. Do đó, theo quy định tại khoản 6 Điều 19, khoản 5 Điều 23 Luật Quốc tịch Việt Nam, một trong những điều kiện mà người xin nhập/xin trở lại quốc tịch Việt Nam đồng thời xin giữ quốc tịch nước ngoài phải đáp ứng là việc giữ quốc tịch nước ngoài phải phù hợp với pháp luật của nước đó. Trường hợp pháp luật của quốc gia mà họ đang mang quốc tịch theo nguyên tắc đa tịch, không yêu cầu công dân nước ngoài phải thôi quốc tịch khi xin nhập quốc tịch nước đó, không quy định việc tự động mất quốc tịch khi có quốc tịch nước ngoài thì việc xin giữ quốc tịch nước ngoài của người đó là phù hợp.
Mọi trường hợp xin trở lại quốc tịch Việt Nam đều được xem xét giải quyết
Theo quy định trước đây tại Điều 23 Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008, việc trở lại quốc tịch chỉ áp dụng cho một số trường hợp cụ thể như: xin hồi hương; có vợ, chồng, cha, mẹ, con là công dân Việt Nam; có công lao đặc biệt; có lợi cho Nhà nước; thực hiện đầu tư tại Việt Nam; hoặc đã thôi quốc tịch Việt Nam để nhập quốc tịch nước ngoài nhưng không được nhập quốc tịch nước ngoài. Luật Quốc tịch Việt Nam (sửa đổi, bổ sung năm 2025) không quy định cụ thể về các trường hợp được trở lại quốc tịch Việt Nam. Như vậy, tất cả các trường hợp đã mất quốc tịch Việt Nam có đơn xin trở lại quốc tịch Việt Nam thì có thể được xét trở lại quốc tịch Việt Nam.
Người xin trở lại quốc tịch Việt Nam phải lấy lại tên gọi Việt Nam trước đây. Trường hợp người xin trở lại quốc tịch Việt Nam đồng thời xin giữ quốc tịch nước ngoài thì có thể lựa chọn tên ghép giữa tên Việt Nam và tên nước ngoài. Tên gọi này phải được ghi rõ trong Quyết định cho trở lại quốc tịch Việt Nam.
Người xin trở lại quốc tịch Việt Nam được giữ quốc tịch nước ngoài nếu đáp ứng 2 điều kiện: Việc giữ quốc tịch nước ngoài phù hợp với pháp luật của nước đó; không sử dụng quốc tịch nước ngoài để gây phương hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân, xâm hại an ninh, lợi ích quốc gia, trật tự, an toàn xã hội của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và được Chủ tịch nước cho phép.
Người được trở lại quốc tịch phải lấy lại tên Việt Nam trước đây và về nguyên tắc phải thôi quốc tịch nước ngoài, trừ một số trường hợp đặc biệt do Chủ tịch nước cho phép.
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quốc tịch Việt Nam cũng góp phần cải cách thủ tục hành chính, rút ngắn thời gian giải quyết hồ sơ nhập quốc tịch tại Sở Tư pháp
Trước đây, người xin nhập quốc tịch Việt Nam phải nộp hồ sơ cho Sở Tư pháp nơi cư trú tại Việt Nam theo khoản 1 Điều 21 Luật Quốc tịch 2008 (trừ trường hợp xin trở lại quốc tịch). Tuy nhiên, theo quy định mới tại khoản 7 Điều 1 Luật Quốc tịch sửa đổi 2025, người xin nhập quốc tịch Việt Nam có thể nộp hồ sơ cho Sở Tư pháp nếu cư trú ở trong nước và nộp cho cơ quan đại diện Việt Nam ở nước sở tại nếu cư trú ở nước ngoài...
Ngoài ra, Luật bổ sung các quy định về quốc tịch của trẻ em và thay đổi quốc tịch của con chưa thành niên; về mối quan hệ giữa Nhà nước và công dân trong một số trường hợp tại Điều 5 Luật Quốc tịch Việt Nam; về giấy tờ chứng minh quốc tịch Việt Nam...