11:14 14/11/2025

Làm chủ tri thức, hoàn thiện thể chế, phát huy động lực văn hoá

Từ định hướng xây dựng mô hình tăng trưởng mới dựa trên tri thức, công nghệ và đổi mới sáng tạo, đến đề xuất hoàn thiện thể chế tôn giáo minh bạch, kiến tạo và khơi dậy sức mạnh văn hoá, con người Việt Nam, nhiều đại diện doanh nhân, trí thức, nghệ sĩ trẻ… đã đang gửi gắm nhiều góp ý tâm huyết vào dự thảo văn kiện Đại hội XIV của Đảng.

Hoàn thiện thể chế tôn giáo, củng cố đại đoàn kết

Với tư cách là một người trẻ Công giáo, anh Phạm Thế Duyệt, Phó Trưởng khoa Kiểm soát bệnh tật HIV/AIDS, Trung tâm Y tế Nghi Lộc tỉnh Nghệ An chia sẻ: Dự thảo văn kiện đã đặt ra yêu cầu "Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy, thúc đẩy đột phá chiến lược, kiến tạo hệ sinh thái phát triển mới". Anh Phạm Thế Duyệt cho rằng, kiến tạo hệ sinh thái này phải bao gồm cả hệ sinh thái cho sự phát triển lành mạnh của các tôn giáo. Chúng ta không thể kêu gọi đồng bào tôn giáo đồng hành cùng dân tộc khi hành lang pháp lý cho sự đồng hành đó còn "bất cập". Chúng ta không thể phát huy nguồn lực tôn giáo nếu thể chế còn "vướng mắc". Vì vậy, để giải quyết triệt để điểm nghẽn này, để chủ trương bảo đảm, tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng thực sự đi vào chiều sâu, tôi cho rằng văn kiện cần nhấn mạnh hơn nữa yêu cầu về tính minh bạch, hiệu quả và kiến tạo phát triển trong hoàn thiện thể chế về tôn giáo.

Chú thích ảnh
Anh Phạm Thế Duyệt, Phó Trưởng khoa Kiểm soát bệnh tật HIV/AIDS, Trung tâm Y tế Nghi Lộc tỉnh Nghệ An.

“Tôi đề xuất bổ sung vào mục III, về xây dựng và hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển nhanh, bền vững đất nước, các nội dung như: Hoàn thiện đồng bộ thể chế, chính sách pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo theo hướng thực sự bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của Nhân dân; phát huy các giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của tôn giáo. Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, chấm dứt triệt để tình trạng 'bất cập' và 'buông lỏng' trong quản lý nhà nước về tôn giáo. Xây dựng hành lang pháp lý minh bạch, rõ ràng, kiến tạo, tạo điều kiện thuận lợi tối đa để các tổ chức tôn giáo hợp pháp, chân chính phát huy nguồn lực, chủ động tham gia đóng góp vào sự nghiệp an sinh xã hội, y tế, giáo dục, từ thiện nhân đạo, đồng hành bền vững cùng dân tộc”, anh Phạm Thế Duyệt bày tỏ.

Song song với việc đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, một nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên mà Đảng ta luôn đặc biệt quan tâm chính là bảo vệ an ninh quốc gia. Các dự thảo văn kiện đã nhất quán khẳng định quyết tâm “kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân, chế độ xã hội chủ nghĩa”.

Giải pháp không chỉ nằm ở các biện pháp an ninh đơn thuần, giải pháp bền vững nhất nằm ở chính định hướng mà các dự thảo văn kiện đã đề ra: "Tăng cường xây dựng lực lượng nòng cốt là người có uy tín trong đồng bào dân tộc thiểu số, đồng bào theo tôn giáo". Tuy nhiên, để phát huy được vai trò này, cần có một sự tin cậy và cơ chế phối hợp thực sự. 

Thực tiễn cho thấy, một trong những hạn chế lớn là "Công tác xây dựng tổ chức đảng, quản lý và phát triển đảng viên nhất là ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, tôn giáo còn gặp nhiều khó khăn". Điều này, cùng với việc thiếu đội ngũ cán bộ dân vận "nắm chắc địa bàn, am hiểu văn hoá", đôi khi dẫn đến sự cứng nhắc, thiếu linh hoạt trong quản lý, vô tình tạo ra khoảng cách giữa chính quyền và tôn giáo, khiến các thế lực thù địch có cơ hội khoét sâu, chia rẽ.

"Văn kiện Đại hội XIV của Đảng cần một bước đột phá trong tư duy về an ninh tôn giáo: Chuyển từ tư duy ‘quản lý’ sang tư duy ‘đồng hành’, chuyển từ ‘phòng ngừa’ bị động sang ‘phối hợp’ chủ động; cần xem các tổ chức tôn giáo hợp pháp và các tín đồ chân chính là đồng minh, là đối tác tin cậy trong mặt trận bảo vệ an ninh quốc gia. Đặc biệt, cần phát huy vai trò của thanh niên tôn giáo, lực lượng trẻ, có trí tuệ, nhạy bén và đang làm chủ không gian mạng; nơi đang là mặt trận chính của các hoạt động xuyên tạc, chống phá", anh Thế Duyệt góp ý.

Tại mục XII "Phát huy mạnh mẽ vai trò chủ thể của nhân dân, dân chủ xã hội chủ nghĩa và sức mạnh của nhân dân và khối đại đoàn kết dân tộc", anh Thế Duyệt đề nghị bổ sung các nội dung như: Đổi mới tư duy và phương thức công tác tôn giáo trong tình hình mới; chủ động xây dựng cơ chế phối hợp chặt chẽ, hiệu quả, tin cậy giữa các cơ quan chức năng với các tổ chức tôn giáo hợp pháp. Phát huy vai trò và trách nhiệm của các chức sắc, nhà tu hành, tín đồ, nhất là lực lượng 'người có uy tín' và thanh niên tôn giáo, coi đây là lực lượng nòng cốt, là đối tác quan trọng trong việc 'bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa'. Chủ động nhận diện, phân biệt rõ hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo thuần tuý với hành vi lợi dụng tôn giáo để kịp thời đấu tranh, vô hiệu hóa các âm mưu chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, bảo đảm an ninh chính trị và sự phát triển bền vững, trong sáng của các tôn giáo

Cùng với đó, nhằm thực hiện thắng lợi các định hướng về tôn giáo và đại đoàn kết dân tộc mà dự thảo Văn kiện Đại hội XIV của Đảng đề , anh Phạm Thế Duyệt cũng đưa ra hai kiến nghị trọng tâm: Thứ nhất là cần phải khẩn trương rà soát, hoàn thiện đồng bộ thể chế, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo, ưu tiên tính minh bạch, đơn giản và kiến tạo trong quản lý nhà nước. Đây là yêu cầu cấp thiết để giải quyết 'điểm nghẽn' về thể chế mà chính các dự thảo đã chỉ rõ là 'còn chồng chéo, vướng mắc, thiếu ổn định'. 

Việc hoàn thiện Luật Tín ngưỡng, tôn giáo phải theo tinh thần kiến tạo phát triển, chuyển mạnh từ tiền kiểm sang hậu kiểm. Một thể chế minh bạch sẽ ngăn chặn sự nhũng nhiễu và quan trọng nhất là tạo điều kiện thuận lợi nhất để các tôn giáo hợp pháp, chân chính phát huy tối đa các nguồn lực của mình cho sự nghiệp phát triển đất nước, đúng như tinh thần Đảng và Nhà nước đang mong đợi.

Thứ hai là tập trung đầu tư đào tạo, xây dựng đội ngũ cán bộ chuyên trách về công tác dân vận, dân tộc, tôn giáo thực sự có kiến thức chuyên sâu, am hiểu văn hóa và có tấm lòng chân thành. Dự thảo chương trình hành động đã xác định nhiệm vụ phải xây dựng đội ngũ cán bộ dân vận nắm chắc địa bàn, am hiểu văn hoá, tổ chức thực hiện tốt công tác dân tộc, tôn giáo.

"Để ngăn ngừa ‘điểm nóng’ và ‘vụ việc phức tạp’, không gì hiệu quả bằng sự tin cậy. Muốn có sự tin cậy, người cán bộ phải thực sự thấu hiểu đời sống đức tin, văn hóa của tôn giáo. Tôi kiến nghị cần có chiến lược dài hạn để đào tạo đội ngũ cán bộ này, giúp họ vượt qua tâm lý né tránh, sợ trách nhiệm để thực sự trở thành cầu nối vững chắc, thân tình giữa Đảng, Nhà nước và các cộng đồng tôn giáo", anh Phạm Thế Duyệt cho hay. 

Xây dựng nền kinh tế tự chủ, hội nhập sâu rộng

Góp ý dự thảo Văn kiện Đại hội XIV của Đảng, anh Vũ Hồng Quân, Chủ tịch Hội Doanh nhân trẻ tỉnh Gia Lai nhấn mạnh, các văn kiện không chỉ tổng kết sâu sắc thực tiễn, mà còn là kim chỉ nam cho thời kỳ phát triển mới, thời kỳ của khát vọng vươn lên, tự chủ và sáng tạo. Tôi đặc biệt ấn tượng với định hướng của Đảng về xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hiện đại, hội nhập quốc tế, trong đó khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số và khu vực kinh tế tư nhân được xác định là những động lực quan trọng nhất của tăng trưởng và phát triển bền vững. 

Chú thích ảnh
Anh Vũ Hồng Quân, Chủ tịch Hội Doanh nhân trẻ tỉnh Gia Lai. 

Về thể chế phát triển và mô hình tăng trưởng mới, theo anh Vũ Hồng Quân, dự thảo đã nêu định hướng: "Xác lập mô hình tăng trưởng mới với mục tiêu nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, giá trị gia tăng và sức cạnh tranh của nền kinh tế; lấy khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số làm động lực chính". Đây là quan điểm đúng đắn và có tính đột phá, song cần làm rõ hơn bản chất của "tự chủ chiến lược quốc gia", tức là năng lực làm chủ mô hình phát triển, công nghệ, tri thức và con người sáng tạo của đất nước.

Anh Quân đề nghị chỉnh sửa, bổ sung theo hướng nhấn mạnh rõ hơn nền tảng và chủ thể của mô hình tăng trưởng mới như: "Xác lập mô hình tăng trưởng mới dựa trên năng lực tự chủ chiến lược quốc gia; lấy việc làm chủ tri thức, công nghệ và con người sáng tạo làm nền tảng; phát huy đồng bộ các động lực tăng trưởng truyền thống và mới, trong đó khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số là động lực chính".

Theo anh Quân, cách diễn đạt này giúp thể hiện rõ sự chuyển đổi về chất của nền kinh tế Việt Nam: Từ mô hình tăng trưởng dựa vào đầu tư, lao động và tài nguyên sang mô hình phát triển dựa vào tri thức, sáng tạo và năng lực nội sinh. Đồng thời, đây cũng là bước cụ thể hóa tầm nhìn về tự chủ chiến lược quốc gia mà dự thảo đã khởi xướng, không chỉ là tự chủ về kinh tế, mà còn là tự chủ về khoa học, công nghệ, dữ liệu và con người sáng tạo, qua đó xây dựng nền kinh tế độc lập, hiện đại, hội nhập và có sức cạnh tranh toàn cầu.

Về phát huy vai trò của khu vực kinh tế tư nhân, anh Hồng Quân cho biết, tại Mục IV, dự thảo khẳng định: "… phát triển kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế…". Đây là bước tiến rõ rệt trong nhận thức và định vị của Đảng đối với khu vực tư nhân, thể hiện tư duy đổi mới phù hợp với yêu cầu phát triển trong giai đoạn mới. 

Tuy nhiên, trong bối cảnh đất nước hướng tới tự chủ chiến lược quốc gia dựa trên khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, cần làm rõ hơn vai trò của khu vực kinh tế tư nhân, không chỉ là "động lực tăng trưởng", mà còn là "lực lượng nòng cốt của nền kinh tế tự chủ", nơi hội tụ năng lực sáng tạo, khả năng thích ứng và tinh thần đổi mới của doanh nghiệp Việt Nam.

Anh Quân đề nghị điều chỉnh, bổ sung theo hướng làm rõ vai trò của kinh tế tư nhân như: "Phát triển kinh tế tư nhân trở thành lực lượng nòng cốt trong xây dựng nền kinh tế tự chủ, mạnh về công nghệ, quản trị và năng lực đổi mới sáng tạo; tham gia trực tiếp vào quá trình phát triển các ngành, lĩnh vực trọng điểm và hình thành năng lực sản xuất mới dựa trên tri thức, dữ liệu và công nghệ do Việt Nam làm chủ. Cùng với việc chú trọng phát triển các tập đoàn kinh tế tư nhân lớn, mạnh, ngang tầm khu vực và thế giới, cần quan tâm hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo và đội ngũ doanh nhân trẻ phát huy tinh thần năng động, sáng tạo, tham gia vào chuỗi giá trị và hệ sinh thái đổi mới sáng tạo quốc gia".

Việc bổ sung này sẽ làm rõ mối quan hệ bổ trợ giữa kinh tế nhà nước và kinh tế tư nhân: kinh tế nhà nước giữ vai trò trụ cột và ổn định chiến lược, còn kinh tế tư nhân là lực lượng năng động, sáng tạo, trực tiếp thúc đẩy đổi mới công nghệ và hội nhập sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu, góp phần nâng cao sức cạnh tranh và năng lực tự chủ của nền kinh tế Việt Nam trong thời kỳ mới.

Về thu hút đầu tư nước ngoài và kết nối doanh nghiệp trong nước, dự thảo đã xác định đúng định hướng, phù hợp với yêu cầu phát triển bền vững và tự chủ chiến lược quốc gia. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy mức độ lan tỏa công nghệ và liên kết giữa khu vực FDI và doanh nghiệp trong nước còn hạn chế. Trong bối cảnh đất nước hướng tới xây dựng năng lực tự chủ quốc gia dựa trên khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, nguồn vốn đầu tư nước ngoài cần được nhìn nhận không chỉ là nguồn tài chính hay việc làm, mà còn là nguồn lực chuyển hóa công nghệ và tri thức.

Do đó, chính sách thu hút đầu tư nước ngoài cần được điều chỉnh theo hướng đặt trọng tâm vào các tiêu chí ràng buộc về chuyển giao công nghệ, nội địa hóa và hợp tác nghiên cứu, phát triển (R&D) với doanh nghiệp trong nước. Đồng thời, cần có giải pháp đồng bộ để nâng cao năng lực hấp thụ công nghệ của doanh nghiệp Việt Nam, cùng với xây dựng cơ chế trung gian kết nối hiệu quả nhằm thúc đẩy chuyển giao công nghệ và hình thành chuỗi giá trị sản xuất nội địa.

Anh Vũ Hồng Quân đề nghị cần làm rõ định hướng thu hút đầu tư nước ngoài như: "Thu hút FDI có chọn lọc, lấy chuyển giao công nghệ, nghiên cứu, phát triển (R&D), đào tạo nhân lực và hình thành chuỗi giá trị nội địa làm tiêu chí trọng tâm; ưu tiên các dự án có cam kết hợp tác với doanh nghiệp Việt Nam trong sản xuất và R&D. Xây dựng Chương trình quốc gia hỗ trợ doanh nghiệp trong nước tham gia chuỗi cung ứng FDI, phát triển trung tâm đổi mới sáng tạo và trung tâm hỗ trợ công nghiệp vùng để thúc đẩy nội địa hóa sản phẩm, lan tỏa công nghệ và tri thức".

Về phát triển văn hoá, con người, giáo dục và khoa học, công nghệ trong chiến lược tự chủ quốc gia, các nội dung tại Mục V, VI và VII của dự thảo đã thể hiện tầm nhìn toàn diện về phát triển văn hoá, con người, giáo dục, khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo. Tuy nhiên, cần thể hiện rõ hơn sự gắn kết giữa các lĩnh vực này như những trụ cột thống nhất trong chiến lược "tự chủ chiến lược quốc gia dựa trên tri thức, công nghệ và con người sáng tạo Việt Nam".

"Trong quá trình xây dựng năng lực tự chủ về tri thức, công nghệ và đổi mới sáng tạo, cần phát huy vai trò tiên phong của thế hệ trẻ, đặc biệt là trí thức trẻ, nhà khoa học trẻ, doanh nhân trẻ và văn nghệ sĩ trẻ vì đây là lực lượng có khả năng tiếp cận nhanh tri thức mới, dám nghĩ, dám làm và sáng tạo. Tuy nhiên, việc hình thành năng lực tự chủ quốc gia cần được tổ chức tổng thể, đồng bộ, dưới sự lãnh đạo của Đảng và với sự tham gia của đội ngũ chuyên gia, nhà khoa học đầu ngành, cộng đồng doanh nghiệp và toàn xã hội, tạo nên sức mạnh chung để phát triển nền kinh tế tự chủ và con người sáng tạo Việt Nam", anh Vũ Hồng Quân nhấn mạnh. 

Chủ tịch Hội Doanh nhân trẻ tỉnh Gia Lai cũng đề xuất nhấn mạnh định hướng hành động cụ thể, bao gồm: Kết nối giáo dục, khoa học công nghệ, văn hoá và đổi mới sáng tạo thành một hệ thống thống nhất, lấy con người sáng tạo làm trung tâm. Đồng thời xây dựng chương trình quốc gia phát triển nhân lực sáng tạo Việt Nam, gắn đào tạo tri thức, kỹ năng số và tư duy sáng tạo với khát vọng cống hiến. Cùng với đó, phát triển hệ sinh thái sáng tạo trẻ, kết nối đội ngũ nhà khoa học, doanh nhân, trí thức và văn nghệ sĩ trẻ với các trung tâm đổi mới sáng tạo, viện nghiên cứu, trường đại học và doanh nghiệp, góp phần hình thành năng lực tự chủ về tri thức, công nghệ và văn hoá của đất nước.

"Với niềm tin vững chắc vào sự lãnh đạo của Đảng, đội ngũ doanh nhân trẻ, trí thức trẻ Việt Nam nguyện sẽ tiếp tục phát huy tinh thần tiên phong, chủ động nắm bắt và làm chủ khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, góp phần kiến tạo nền kinh tế tự chủ và nâng cao vị thế Việt Nam trên trường quốc tế", anh Vũ Hồng Quân chia sẻ.

Phát triển toàn diện văn hóa và con người Việt Nam

Ca sĩ Nguyễn Thị Ngọc Hà (Hà Myo), Nhà hát Ca múa nhạc Việt Nam, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch chia sẻ, Đảng ta đã khẳng định: "Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của phát triển bền vững". Điều này đặt ra trách nhiệm to lớn cho những người làm công tác văn hoá, trong đó có chúng tôi, những người nghệ sĩ.

Chú thích ảnh
Ca sĩ Hà Myo Nhà hát Ca múa nhạc Việt Nam, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch. 

“Tôi nhận thấy rằng, mỗi tác phẩm nghệ thuật, mỗi buổi biểu diễn, không đơn thuần chỉ là một sản phẩm giải trí. Nó có thể khơi gợi lòng tự hào dân tộc, nuôi dưỡng tâm hồn, bồi đắp nhân cách, và quan trọng hơn, nó gieo vào thế hệ trẻ một tình yêu với cội nguồn và khát vọng vươn lên. Người nghệ sĩ vì thế không chỉ là người biểu diễn, mà còn là người gìn giữ và lan tỏa bản sắc”, ca sĩ Hà Myo bày tỏ.

Thực tiễn cho thấy, nếu chỉ bảo tồn văn hoá theo lối tĩnh tại, di sản rất dễ trở nên xa lạ với lớp trẻ. Nhưng nếu biết sáng tạo trên nền truyền thống, chúng ta có thể biến di sản thành nguồn cảm hứng sống động. Tuy nhiên, để có thể thực hiện tốt sứ mệnh này, những người làm công tác văn hoá rất cần được quan tâm về chính sách: Thứ nhất, cần có cơ chế đãi ngộ xứng đáng, để nghệ sĩ toàn tâm toàn ý với sáng tạo, không bị áp lực đời sống làm gián đoạn cống hiến. 

Thứ hai, cần môi trường đào tạo và bồi dưỡng liên tục, không chỉ về kỹ năng nghệ thuật, mà còn về công nghệ, truyền thông, quản trị. Trong thời đại số, nghệ sĩ vừa là người sáng tạo, vừa là người lan toả, vì thế cần kiến thức toàn diện. Thứ ba, cần bảo vệ bản quyền và khích lệ sáng tạo. Nhiều sản phẩm nghệ thuật số hiện nay bị sao chép, phát tán trái phép, ảnh hưởng trực tiếp đến động lực sáng tạo của nghệ sĩ. 

Ngày nay, mỗi nghệ sĩ trẻ khi đứng trên sân khấu không chỉ đại diện cho bản thân, mà còn đại diện cho văn hoá Việt Nam trước bạn bè quốc tế. “Tôi từng mang hát xoan, hát xẩm kết hợp hiện đại sang biểu diễn ở một số sự kiện quốc tế và nhận thấy khán giả nước ngoài vô cùng hứng thú. Họ tìm thấy ở đó vừa sự khác biệt của bản sắc Việt, vừa sự gần gũi trong ngôn ngữ âm nhạc hiện đại. Điều đó cho thấy, người nghệ sĩ chính là “đại sứ văn hoá”, góp phần đưa Việt Nam ra thế giới bằng ngôn ngữ nghệ thuật”, Hà Myo bộc bạch.

Từ thực tiễn hoạt động, ca sĩ Hà Myo kiến nghị một số nội dung như: Đẩy mạnh chính sách khuyến khích sáng tạo dựa trên di sản, để mỗi di sản được “tái sinh” trong môi trường hiện đại; thành lập quỹ hỗ trợ nghệ sĩ trẻ sáng tạo, giúp những thử nghiệm mới mẻ có cơ hội đến với công chúng. Đồng thời tăng cường hợp tác quốc tế về văn hoá nghệ thuật, để nghệ sĩ Việt Nam vừa học hỏi, vừa lan toả bản sắc dân tộc ra thế giới.

"Tôi tin rằng với sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, với trách nhiệm và đam mê của những người làm công tác văn hoá, chúng ta sẽ xây dựng được một nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, vừa hội nhập sâu rộng, vừa gìn giữ được hồn cốt dân tộc. Với cá nhân tôi, mỗi sản phẩm âm nhạc, mỗi lần đứng trên sân khấu đều là một cơ hội để thực hiện sứ mệnh đó, lan tỏa tình yêu văn hoá Việt Nam, khơi dậy niềm tự hào và truyền cảm hứng cho thế hệ trẻ", nữ ca sĩ Hà Myo chia sẻ.

Có thể thấy, điểm chung trong các ý kiến đóng góp vào dự thảo văn kiện là khát vọng kiến tạo một Việt Nam hiện đại, hội nhập sâu rộng. Để hiện thực hóa mục tiêu ấy, trước hết phải làm chủ tri thức, công nghệ và nuôi dưỡng nguồn lực con người sáng tạo; đồng thời phát huy đồng bộ sức mạnh của kinh tế tư nhân, xây dựng hệ sinh thái tôn giáo lành mạnh, cùng nền văn hoá, nghệ thuật đậm bản sắc trong kỷ nguyên số.

Hồng Phượng/Báo Tin tức và Dân tộc