11:08 08/11/2011

Kỳ họp thứ hai, Quốc hội khóa XIII: Thảo luận việc thực hiện chính sách, pháp luật về môi trường tại các khu kinh tế, làng nghề

Ngày 7/11, Quốc hội thảo luận tại hội trường về việc thực hiện chính sách, pháp luật về môi trường tại các khu kinh tế (KKT), làng nghề.

Ngày 7/11, Quốc hội thảo luận tại hội trường về việc thực hiện chính sách, pháp luật về môi trường tại các khu kinh tế (KKT), làng nghề.

Ô nhiễm môi trường còn là thách thức

Báo cáo giám sát do Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội, Phan Xuân Dũng trình bày nêu rõ: Sau gần 10 năm thực hiện chính sách về việc xây dựng các KKT tại Việt Nam cho thấy, đây là một chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của một số địa phương. Hệ thống tổ chức quản lý môi trường ở Trung ương và địa phương đã từng bước được kiện toàn tạo điều kiện thuận lợi cho công tác BVMT tại các KKT. Nhận thức về BVMT của các tổ chức, doanh nghiệp, cộng đồng dân cư đã từng bước được nâng lên. Công tác XHH về BVMT bước đầu được hình thành.

Đại biểu Quốc hội tỉnh Đồng Nai Dương Trung Quốc, phát biểu ý kiến. Ảnh: Doãn Tấn - TTXVN


Tuy nhiên, qua giám sát cho thấy, công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành công tác BVMT tại các KKT còn bất cập.

Theo tổng hợp của Đoàn giám sát, nước ta hiện có 4.575 làng nghề, trong đó có 1.324 làng nghề được công nhận và 3.221 làng có nghề. Hoạt động sản xuất nghề nông thôn đã tạo ra việc làm cho hơn 11 triệu lao động, thu hút khoảng 30% lực lượng lao động nông thôn, có những nơi thu hút hơn 60% lao động của làng. Hoạt động của làng nghề đã và đang có nhiều đóng góp cho ổn định đời sống nông dân, góp phần phát triển kinh tế nông thôn.

Tuy nhiên, một phần không nhỏ các làng nghề Việt Nam đã và đang bị ô nhiễm môi trường, có làng nghề gây ô nhiễm môi trường đến mức nghiêm trọng, ảnh hưởng đến sức khỏe người lao động và cộng đồng dân cư. Trong khi đó, hệ thống VBQPPL về BVMT, đặc biệt là quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về môi trường tuy tương đối đầy đủ nhưng nhiều quy định thiếu khả thi nên việc tổ chức thực hiện còn hạn chế.

Kiến nghị sửa đổi, bổ sung pháp luật về BVMT

Thảo luận tại hội trường, đa số các đại biểu kiến nghị sớm sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật BVMT năm 2005, trong đó có những quy định cụ thể về KKT và làng nghề; nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Pháp lệnh phí và lệ phí bổ sung về một số quy định liên quan đến BVMT; ban hành Luật Xử lý vi phạm hành chính theo hướng có chế tài xử lý hành vi vi phạm pháp luật BVMT đủ mạnh và khả thi; nghiên cứu để tiến tới xây dựng văn bản quy phạm pháp luật riêng và phù hợp với khu kinh tế và làng nghề.

Theo đại biểu Trương Thái Hiền (Kiên Giang), cần sửa đổi quy định liên quan đến mức thu phí bảo vệ môi trường đối với nước thải công nghiệp bởi mức thu hiện nay quá thấp, không đủ bù đắp cho các khoản chi phục vụ công tác kiểm định. Đại biểu Nguyễn Minh Lâm (Long An) đề xuất thực hiện việc quy hoạch bảo vệ môi trường các KKT, làng nghề hướng đến phát triển bền vững; tăng cường năng lực, đầu tư trang thiết bị cho công tác BVMT đối với các KKT, làng nghề; chú trọng BVMT trên các lưu vực sông... Cần đưa việc khắc phục ô nhiễm và cải thiện môi trường làng nghề vào chương trình mục tiêu quốc gia 2011 - 1015, trong đó, ưu tiên phân bổ cho các địa phương có nhiều bức xúc về môi trường, tránh dàn trải khiến hiệu quả không cao.

Theo đại biểu Thân Đức Nam, Đà Nẵng, phải khách quan nhìn nhận sự hình thành cũng như vai trò của các KKT, làng nghề là chủ trương đúng đắn, đóng góp quan trọng vào kinh tế - xã hội của cả nước và các địa phương. Nếu quản lý tốt, sẽ khai thác được tiềm năng, thế mạnh cũng như lợi thế so sánh của các KKT, làng nghề.

Đại biểu Đỗ Văn Vẻ (Thái Bình) phân tích nguyên nhân chủ yếu của ô nhiễm môi trường làng nghề xuất phát từ ý thức của người dân chưa hiểu rõ những nguy hiểm do mình gây ra. Bên cạnh đó, hạ tầng làng nghề còn chưa đồng bộ, hệ thống thoát nước thải chưa được quan tâm đúng mức. Hầu hết các xã không có cán bộ chuyên môn về môi trường. Nguồn lực tài chính còn hạn chế. Trong khi đó, chưa có chế tài bắt buộc nên các cơ sở sản xuất đều ít quan tâm đến công tác này. Đại biểu đề nghị xây dựng quy hoạch các KKT, làng nghề theo hướng xử lý tập trung các lĩnh vực sản xuất gây ô nhiễm môi trường; chỉ sản xuất phân tán sản phẩm, hàng hóa không gây ô nhiễm.

Cần gắn phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường

Các đại biểu Quốc hội cơ bản nhất trí với Báo cáo của Chính phủ và Báo cáo kết quả giám sát của Ủy ban TVQH về việc thực hiện chính sách, pháp luật về môi trường tại các khu kinh tế (KKT), làng nghề. Các đại biểu nhất trí cho rằng, nội dung giám sát chuyên đề về môi trường các KKT, làng nghề là việc làm thiết thực của Quốc hội trong bối cảnh tình hình môi trường nói chung và môi trường tại các KKT, làng nghề nói riêng đang ở tình trạng đáng quan ngại.

Đại biểu Nguyễn Anh Sơn (Nam Định), Trần Du Lịch (Thành phố Hồ Chí Minh), Nguyễn Văn Tiên (Tiền Giang), Dương Trung Quốc (Đồng Nai) đánh giá, sự thay đổi trong mô hình, phương thức sản xuất tại các làng nghề đã vượt quá khả năng quản lý, điều chỉnh của các tiết chế quản lý cũ. Một số doanh nghiệp đã lợi dụng danh nghĩa làng nghề để sản xuất hàng hóa kém chất lượng, trốn thuế, né tránh trách nhiệm xử lý môi trường sản xuất. Các đại biểu kiến nghị Chính phủ cần rà soát, phân loại các làng nghề, KKT để có giải pháp cụ thể trong việc tập trung, di dời các loại nghề gây ảnh hưởng môi trường và tập trung đầu tư vào các ngành nghề có hiệu quả kinh tế, có giá trị văn hóa và không gây ô nhiễm môi trường.

Cùng chung ý kiến với các đại biểu khác, đại biểu Lê Phước Thanh (Quảng Nam), Lê Minh Thông (Thanh Hóa) cho rằng để đảm bảo sự phát triển bền vững của các làng nghề, cần đẩy mạnh hoạt động xã hội hóa trong lĩnh vực bảo vệ môi trường ở các làng nghề, KKT. Chính phủ cần triển khai các biện pháp hỗ trợ về công nghệ, cung cấp tín dụng ưu đãi, áp dụng chính sách ưu đãi thuế, khuyến khích doanh nghiệp và nhân dân tham gia đầu tư, sử dụng công nghệ tiên tiến trong sản xuất và xử lý chất thải tập trung tại các KKT và làng nghề.

Đại biểu Nguyễn Thái Học (Phú Yên), Phạm Thị Mỹ Lệ (Bình Phước), Phạm Tất Thắng (Vĩnh Long) và một số đại biểu khác cùng cho rằng, hệ thống văn bản pháp luật hiện nay trong lĩnh vực môi trường KKT, làng nghề đang vừa thiếu, vừa thừa, chồng chéo và chưa được thực thi nghiêm túc trên thực tế. Vấn đề phân cấp, phân quyền, trách nhiệm trong hoạt động kiểm tra, giám sát và xử lý các hành vi vi phạm về môi trường tại KKT, làng nghề cũng chưa được quy định rõ ràng, dẫn đến tình trạng vi phạm pháp luật trong lĩnh vực này chậm được phát hiện, việc xử lý cũng chậm và chưa thỏa đáng.
Các đại biểu cho rằng, để đảm bảo cho sự phát triển bền vững của các làng nghề và các KKT, cần rà soát, bổ sung và hoàn thiện hệ thống văn bản pháp quy về bảo vệ môi trường KKT, làng nghề; đồng thời đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền pháp luật đến người dân, các doanh nghiệp, tạo sự thay đổi về nhận thức và ý thức chấp hành pháp luật của người dân, các doanh nghiệp và cả cán bộ, công chức địa phương nơi có KKT, làng nghề. Theo các đại biểu, công tác quản lý môi trường làng nghề, KKT tại cấp xã do cán bộ kiêm nhiệm đảm trách và có tới 95% cán bộ cấp huyện chưa được đào tạo nghiệp vụ chuyên môn là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng quản lý yếu kém trong việc đảm bảo thực thi pháp luật về môi trường tại KKT, làng nghề.

Thanh Hòa - Xuân Khu