10:15 24/10/2025

Khi động lực hấp thụ thuế quan từ Mỹ của các nhà xuất khẩu giảm xuống

Khi cạnh tranh cung ứng cho thị trường Mỹ giảm, động lực hấp thụ thuế quan của nhà xuất khẩu cũng giảm theo khiến giá cả tăng cao và ít lựa chọn hơn - thậm chí là thiếu hụt một số mặt hàng - cho người tiêu dùng Mỹ.

Chú thích ảnh
Các biện pháp thuế quan mới khiến hàng hóa nhập khẩu tăng giá, từ điện tử, ô tô đến hàng tiêu dùng, đẩy gánh nặng sang người dân Mỹ và đe dọa làm giảm sức mua trong nước (trong ảnh: Quang cảnh cảng hàng hóa tại Los Angeles, California, Mỹ). Ảnh: THX/TTXVN

Bình luận trên trang web của Diễn đàn Đông Á (eastasiaforum.org) mới đây, nghiên cứu viên cao cấp Ayant Menon tại Viện ISEAS-Yusof Ishak ở Singapore cho rằng chính sách thuế quan của chính quyền Tổng thống Mỹ Donald Trump đang gây ra những tranh cãi gay gắt về việc ai sẽ thực sự "gánh" giá tăng: các nhà xuất khẩu nước ngoài hay người tiêu dùng Mỹ. Trong khi Tổng thống Trump tin rằng các nhà xuất khẩu nên chịu thuế quan bằng cách giảm biên lợi nhuận, thực tế của chuỗi cung ứng toàn cầu phức tạp cho thấy kịch bản này có thể không kéo dài.

Khi thuế quan của Mỹ có hiệu lực, các nhà xuất khẩu đứng trước quyết định khó khăn: hấp thụ thuế quan (giảm lợi nhuận) hay chuyển thuế quan sang nhà nhập khẩu Mỹ (và chấp nhận rủi ro mất thị phần).

Dựa trên các tài liệu nghiên cứu về "sự truyền dẫn" của các thay đổi chính sách (bao gồm cả thuế quan) vào giá hàng hóa thương mại, mức độ truyền dẫn phụ thuộc vào sản phẩm và thời gian, không hoàn toàn tùy thuộc vào mức độ cạnh tranh giữa người bán và người mua.

Trong ngắn hạn, thuế quan có thể được hấp thụ bởi nhà xuất khẩu hoặc nhà nhập khẩu (người trả thuế). Tổng thống Trump từng bày tỏ quan điểm vào ngày 17/5 trên Truth Social rằng các công ty như Walmart và Trung Quốc nên "chấp nhận thuế quan" và không tính phí cho khách hàng thân thiết.

Nếu các nhà xuất khẩu chịu hoàn toàn thuế quan, nước nhập khẩu sẽ được hưởng lợi từ điều khoản thương mại, có thể cải thiện phúc lợi xã hội. Ngược lại, nếu nhà nhập khẩu hoặc nhà bán lẻ chịu thuế quan, nó có thể đóng vai trò như một loại thuế doanh nghiệp, sẽ ảnh hưởng tới người tiêu dùng.

Có bằng chứng cho thấy các đợt thuế quan đầu tiên của chính quyền Trump đối với Trung Quốc đã được hấp thụ một phần, với các nhà xuất khẩu Trung Quốc hấp thụ từ 10 đến 50% thuế quan đối với một số sản phẩm như thép. 

Người tiêu dùng Mỹ: Gánh nặng tăng giá và lạm phát

Giờ đây, các nhà xuất khẩu ít có động lực để chịu thuế quan hơn vì lần này, tất cả các quốc gia - chứ không chỉ riêng Trung Quốc - đều bị đánh thuế, làm giảm tác động đến khả năng cạnh tranh tương đối. Điều này đồng nghĩa với việc họ dễ dàng chuyển thuế quan sang cho nhà nhập khẩu Mỹ, và cuối cùng là người tiêu dùng.

Đã có những dấu hiệu cho thấy giá cả tăng do thuế quan. Với việc tạm dừng áp thuế quan (trừ Trung Quốc) kết thúc vào tháng 8/2025 và lượng hàng tồn kho trước thuế sắp cạn kiệt, giá cả có thể sẽ tiếp tục tăng.

Ngoài ra, các tác động gián tiếp sẽ làm gia tăng áp lực lạm phát theo thời gian, bao gồm: Giá các sản phẩm thay thế sản xuất trong nước tăng đồng loạt với giá hàng nhập khẩu mà chúng cạnh tranh; chi phí đầu vào nhập khẩu tăng lan rộng khắp chuỗi cung ứng, làm xói mòn sức cạnh tranh của hàng xuất khẩu Mỹ sử dụng chúng.

Bên cạnh đó là vòng xoáy giá-lương: Khi chi phí sinh hoạt tăng, người lao động sẽ đòi hỏi mức lương danh nghĩa cao hơn. Ngoài ra, sự gia tăng kỳ vọng lạm phát có thể dẫn đến lạm phát phi mã, đòi hỏi việc thắt chặt tiền tệ, vốn làm giảm tăng trưởng kinh tế.

Đa dạng hóa chuỗi cung ứng và rủi ro đình trệ

Một lý do khiến Tổng thống Trump ủng hộ thuế quan là niềm tin rằng các nhà xuất khẩu sẽ "vượt rào thuế quan" bằng cách chuyển hoạt động sản xuất sang Mỹ để duy trì khả năng cạnh tranh tại thị trường tiêu dùng lớn nhất thế giới. Các công ty như Honda và Hyundai đã báo cáo kế hoạch chuyển một phần sản xuất ô tô ra khỏi Mexico, và các công ty bán dẫn như TSMC và Nvidia cũng có kế hoạch mở rộng đầu tư tại Mỹ. Tuy nhiên, thực tế của chuỗi cung ứng toàn cầu phức tạp và sự phân tán sản xuất về mặt địa lý khiến việc di dời không dễ dàng hoặc đáng giá.

Ngược lại, phản ứng có thể xảy ra từ các quốc gia là giảm sự phụ thuộc vào một đối tác thương mại "hung hăng" và không đáng tin cậy như Mỹ. Có những dấu hiệu cho thấy Đông Nam Á đã và đang đa dạng hóa sản xuất, thoát khỏi sự phụ thuộc vào Mỹ. Ví dụ, Indonesia và Liên minh châu Âu (EU) đã hoàn tất một thỏa thuận thương mại vào tháng 9/2025 sau gần một thập kỷ đàm phán bế tắc.

Như vậy, khi cạnh tranh cung ứng cho thị trường Mỹ giảm, động lực hấp thụ thuế quan của nhà xuất khẩu cũng giảm theo. Điều này sẽ dẫn đến giá cả tăng cao và ít lựa chọn hơn - thậm chí là thiếu hụt một số mặt hàng - cho người tiêu dùng Mỹ.

Về lâu dài, bằng chứng quốc tế cho thấy Mỹ có thể sẽ không thấy lợi ích thương mại hay đầu tư mới đáng kể nào. Thay vào đó, kịch bản nhiều khả năng sẽ là lạm phát gia tăng, bất bình đẳng ngày càng trầm trọng hơn và tăng trưởng chậm lại, làm tăng nguy cơ lạm phát đình trệ.

Vũ Thanh/Báo Tin tức và Dân tộc