01:01 05/01/2011

I-400: Bí mật lớn nhất trong Thế Chiến II - Kỳ II: Kế hoạch tấn công kênh đào Panama

Ban đầu, các tàu ngầm I-400 được thiết kế để chứa hai máy bay. Tuy nhiên, vào năm 1943, tư lệnh Yasuo Fujimori thuộc Bộ tổng tham mưu Hải quân đã yêu cầu mở rộng kích cỡ các tàu này. Điều đó được cho là khả thi và theo mẫu thiết kế lại, các tàu I-400 có thể chở ba máy bay Aichi M6A Seiran.

Kỳ II: Kế hoạch tấn công kênh đào Panama

Ban đầu, các tàu ngầm I-400 được thiết kế để chứa hai máy bay. Tuy nhiên, vào năm 1943, tư lệnh Yasuo Fujimori thuộc Bộ tổng tham mưu Hải quân đã yêu cầu mở rộng kích cỡ các tàu này. Điều đó được cho là khả thi và theo mẫu thiết kế lại, các tàu I-400 có thể chở ba máy bay Aichi M6A Seiran. Tất cả những điều chỉnh này là để phục vụ cho một kế hoạch lớn của Hải quân Đế quốc Nhật Bản.

Các máy bay Seiran được đưa vào trong các khoang chứa trên tàu ngầm I-400.

Các máy bay Seiran được thiết kế riêng cho mục đích sử dụng trên tàu và có có thể mang 800 kg bom đạn, bay xa 1.000 km với tốc độ 475 km/giờ. Các cánh máy bay có thể xoay 90 độ và gập lại về phía sau, đuôi ngang và dọc của máy bay cũng có thể gập xuống để thu nhỏ đường kính máy bay cho vừa với khoang chứa. Khi chuẩn bị tác chiến, máy bay có sải cánh 12 m và chiều dài 11,6 m. Một đội bốn người có thể chuẩn bị và phóng cả ba chiếc máy bay trong vòng 45 phút (hoặc 15 phút nếu không phải lắp phao nổi cho máy bay).

Vì thường được phóng trong đêm nên vỏ ngoài của máy bay Seiran được phủ một lớp sơn phát quang để dễ lắp ráp trong bóng tối. Máy bay sẽ cất cánh trên bệ phóng khí nén dài 26 m ở boong trước. Hai bộ phao nổi của máy bay Seiran được cất trong các ngăn chống thấm nước đặc biệt nằm ngay dưới sàn tàu chính ở hai bên bệ phóng. Bộ thứ ba và các phụ tùng thay thế được cất bên trong khoang chứa. Điều bất ngờ là sự tồn tại của các máy bay Seiran không được tình báo Đồng minh biết đến trong chiến tranh.

Khi chiến tranh chuyển sang thế bất lợi cho Nhật Bản và các hạm đội của họ không thể tự do di chuyển như trước trên Thái Bình Dương, Tư lệnh Hạm đội Liên Hợp Nhật Bản, đô đốc Isoroku Yamamoto đã quyết định vạch ra một kế hoạch táo bạo tấn công thủ đô Oasinhtơn, thành phố New York, và các thành phố lớn khác của Mỹ.

Sau chuyến thị sát Rabaul vào tháng 8/1943, đại tá hải quân Chikao Yamamoto và tư lệnh Yasuo Fujimori đã chủ trương sử dụng chiến thuật “sen toku” (tấn công bí mật bằng tàu ngầm) để phá hủy hệ thống cửa cống của Kênh đào Panama nhằm cắt đứt các tuyến tiếp tế đi đến Thái Bình Dương và ngăn chặn sự di chuyển của tàu Mỹ. Công tác thu thập tình báo cho chiến dịch này được bắt đầu vào cuối năm đó.

Khi lên kế hoạch này, người Nhật biết rằng Mỹ đã bố phòng cẩn mật ở cả hai phía của Kênh đào Panama. Tuy nhiên, khi chiến tranh tiếp diễn và sức mạnh của Nhật Bản suy yếu, an ninh xung quanh kênh đào này ngày càng lỏng lẻo. Tháng 1/ 1944, tư lệnh Fujimori đích thân thẩm vấn một tù binh chiến tranh Mỹ từng canh gác ở Kênh đào Panama. Người này nói rằng hoạt động tuần tra phòng không hầu như đã ngừng lại vì các cường quốc phe Trục được cho là khó có thể tiến hành một cuộc tấn công nhằm vào các cửa cống. Điều này càng khiến Fujimori tin rằng kế hoạch của ông là khả thi.

Sau khi nghiên cứu hàng trăm tài liệu liên quan đến Kênh đào Panama, trong đó có các bản thiết kế về cấu trúc kênh đào và phương án xây dựng, các kỹ sư hàng hải Nhật Bản đi đến kết luận rằng mặc dù các cửa cống ở Miraflores bên phía Thái Bình Dương dễ bị oanh tạc nhất, song việc tấn công các cửa cống Gatun bên phía Đại Tây Dương sẽ gây ra thiệt hại nặng nền hơn vì sẽ khó khống chế các dòng nước chảy ra hơn. Họ tính toán rằng nếu tấn công thành công, Kênh đào Panama sẽ bị tê liệt trong ít nhất 6 tháng.

Khoang chứa máy bay trên tàu I-400 được đóng kín trước khi lên đường làm nhiệm vụ.

Kế hoạch tấn công Kênh đào Panama đỏi hỏi bốn tàu ngầm chở máy bay gồm I-400, I-401, I-13 và I-14 (hai tàu bổ sung cho hạm đội và vẫn đang được đóng tại Kobe) di chuyển theo hướng đông xuyên qua Thái Bình Dương đến Vịnh Panama. Hành trình này dự kiến kéo dài hai tháng. Tại vị trí cách bờ biển Êcuađo 185 km, các tàu ngầm sẽ phóng máy bay Seiran vào 3 giờ sáng trong đêm sáng trăng.

Các máy bay Seiran sẽ bay ở độ cao 4.000 m theo bờ biển phía bắc của Côlômbia đến khu vực Colón. Khi đã ở bên phía Caribê của kênh đào, các máy bay sẽ quay đầu bay về phía tây sau đó hướng theo phía tây nam và cuối cùng tiếp cận kênh đào Panama vào lúc bình minh. Sau khi hoàn thành các đợt rải bom, các máy bay Seiran sẽ trở về một vị trị đã định và hạ cánh xuống bên cạnh các tàu ngầm đợi sẵn, nơi chúng sẽ được cẩu lên.

Ngày 5/6/1945, tất cả 4 chiếc tàu ngầm chở máy bay đã đến Vịnh Nanao, nơi chứa một mô hình đầy đủ làm bằng gỗ mô phỏng các cửa cống Gatun được xưởng Hải quân Maizuru dựng lên. Trong đêm tiếp theo, cuộc diễn tập chính thức bắt đầu với việc các tổ lái máy bay Seiran thực hành gấp rút lắp ráp, phóng và thu hồi máy bay của họ. Từ ngày 15/6, các phi công tập dượt các cuộc oanh tạc ban ngày nhằm vào mô hình cổng gỗ của kênh đào. Đến ngày 20/6, toàn bộ quá trình diễn tập kết thúc và chiến dịch chuẩn bị được triển khai.

Nhưng chiến dịch này mãi mãi chỉ là phác thảo trên giấy. Cục diện chiến tranh thay đổi đã khiến các tàu ngầm I-400 không bao giờ đến được bờ biển nước Mỹ.

Huy Lê (tổng hợp)

>> Đón đọc kỳ cuối: Kế hoạch cuối cùng