07:08 26/07/2012

Hồn đất

Chúng tôi kính cẩn cắm nhang lên mộ. Trong mùi hương trầm mặc, xa vắng, bỗng dưng tôi thấy mơn man một làn gió là lạ, run rẩy quấn quanh mình. Rồi mùi hương bồ kết như từ một mái tóc vừa gội xong, đẫm nắng, thoang thoảng, lúc chợt sóng sánh, khi gần, khi xa.

Thế là hắn biến mất tăm, mất tích như chưa hề có mặt dưới vòm trời này. Hắn, một thằng lính vạm vỡ, tóc rễ tre lởm chởm, bộ râu quai nón như một nét mực tàu trên gương mặt phong trần. Hắn là thằng bạn thân nhất của tôi thời binh lửa. Tôi đã bao phen đi tìm hắn như đi tìm nỗi nhớ một thời. Vậy mà non nước rộng dài, tìm hắn cứ như đáy bể mò kim…!


Một hôm tình cờ gặp một đồng đội cũ, tên là Giảo, hồi đó cánh lính vẫn gọi là Giảo Róm. Giảo tuổi Tỵ, cầm tinh con rắn. Trời phú cho gã đôi con mắt ti hí, giảo hoạt như mắt hổ mang. Gã hiện là ông chủ của một cửa hàng ăn kiêm dịch vụ tươi mát ở thành Sơn Hạ. Ngôi nhà Giảo nằm chềnh ềnh ở mặt tiền, có đến bốn tầng lầu, dài hun hút, nhiều ngóc, lắm ngách, ngoắt ngoéo hệt cái hang rắn. Dọc lối vào, các em mắt xanh, mỏ đỏ gọi vợ chồng gã là ba mẹ, lượn lờ dưới ánh đèn đục mờ. Nghe tôi hỏi về hắn, Giảo vuốt cái bụng kềnh càng, hấp háy đôi mắt rắn, mập mờ: “Thằng Hành hử? Hắn vứt đời tám hoánh rồi! Nghe đâu hắn bỏ vô rừng mạn Lao Bảo, Quảng Trị nhập hội lục lâm. Đồ đểu! Ông chưa biết hử? Hắn đã cho cái cô Thục y tá ngày xưa “đi Tây” để lấy một ả người mẫu đẹp ác chiến!”. Dù biết chẳng tin gì lắm cái miệng lưỡi của Giảo, tôi cũng giật thót người, tá hoả lần lên Lao Bảo tìm hắn. Đến thị trấn, nghe tôi hỏi han, mấy tay xe ôm vốn thông thạo đường đất hơn cả thổ công, chở tôi một mạch đến trang trại của Hành. Thoạt thấy tôi, hắn trố mắt, đánh rơi cả cái cốc nước đang cầm trên tay, lập cập lao đến, dang rộng hai tay đổ ập vào người tôi. Rồi hắn dụi mắt. Rồi hắn siết tôi vào người. Rồi hắn và tôi cứ đứng giữa cái nắng tháng tư miền Tây mà nhìn nhau, cứ như hai kẻ yêu nhau mới gặp lại sau cả thế kỷ chia xa vậy. Tôi chợt thấy hình như khóe mắt hắn rân rấn nước. Tôi cũng thấy cay cay nơi sống mũi, xét nét nhìn cơ ngơi của Hành. Ngôi nhà ba tầng tọa lạc giữa một vùng cây trái đủ thứ, đủ loại sum suê, đủ các tiện nghi sang trọng như thành phố. Tôi ngơ ngác:

Minh họa: Trần Thắng


- Nghe nói mày vừa cưới một cô vợ người mẫu đẹp hết xẩy kia mà? Sao tao thấy nhà cửa vắng hoe thế này? Nàng đâu rồi?


- Người mẫu, người miếc gì đâu, cô ấy là Hiệu trưởng trường Tiểu học xã này. Bữa nay cô ấy đang họp trên Phòng Giáo dục huyện, mày ạ. Còn mày? Ngày ấy ra Thủ đô học Tổng hợp, vậy chứ giờ mày là nhà báo hay nhà văn?


- Tao chẳng là cái thứ nhà nào sất! Tao chỉ là cái thằng đi tìm đồng đội. Thằng sống tao cũng tìm, đứa chết tao cũng tìm. Tao tìm đến đây là để coi mày còn sống hay đã chết, sau nữa là để hỏi tội mày! Tao biết mày vẫn có đất đai, nhà cửa ở thành Vinh, hà cớ chi lại bỏ vào đây mà sống? Mày đi làm tướng cướp, đúng không? Bây giờ vợ mày chẳng ở nhà, tao hỏi luôn thể: Cớ sao mày bỏ Thục, người mày yêu say đắm, từng thề sống, thề chết sẽ ở trọn đời với nàng? Tại sao?


Nghe tôi hỏi một lô, một lốc, tự dưng một nét buồn u uất nhập nhòa trong mắt Hành. Một cái buồn tôi chưa hề thấy ở hắn bao giờ, giọng hắn trở nên là lạ:


- Mày nghe thằng Giảo Róm kể phải không? Nếu thế, mày nghĩ về tao thế cũng phải. Mày dám nói toạc ra với tao lại càng phải nữa. Nhưng đến cái nước nó vu cho tao đi ăn cướp mà mày cũng tin thì mày đếch phải là thằng bạn của tao rồi! Thôi đã lặn lội đến đây, cứ vào nhà nghỉ ngơi cho khỏe cái đã. Chuyện dài lắm mà mày…


*
* *


Non trưa thì Hạnh, vợ Hành đi họp về. Cô bẽn lẽn chào tôi rồi vào bếp lo cơm đãi khách. Thằng Giảo nói không sai, Hạnh có dáng một người mẫu và một gương mặt đẹp đến huyền ảo. Suốt bữa ăn, Hạnh cứ xăng xái rót rượu cho tôi, gắp thức ăn cho chồng. Mỗi khi nâng li lên, tôi vờ nhìn vào chén rượu, nhưng lại liếc xéo về phía Hạnh. Hạnh có nét gì đó giống Thục mà tôi không sao cắt nghĩa nổi. Ánh mắt thăm thẳm kia. Nụ cười có hai lúm đồng tiền tròn xoe kia. Cái dáng đi vừa điệu đà vừa đoan trang kia… Đúng là của Thục rồi! Duy làn da Hạnh là khác Thục. Làn da Thục mươn mướt màu sốt rét rừng, còn làn da Hạnh thì hồng hào, mỏng mảnh như vầng mây buổi sớm. Hay Hạnh là em gái Thục? Không có lí! Chẳng có cái lí nào một kẻ bạc tình, ruồng rẫy chị mà lấy được em! Hay là…?


… Một quả lựu đạn mỏ vịt ném ra từ ụ súng sót lại trên cứ điểm khét lẹt mùi thuốc súng. Hành vừa kịp kéo tôi nằm xuống, thì lựu đạn phát nổ. Hắn quát um lên: “ Lính với tráng tảo trừ như cứt! Tao dính mảnh rồi. Mày có sao không, chính trị viên?”. Tôi thấy lạnh buốt nơi bả vai và đùi bên trái, thò tay xuống, bàn tay nhòe nhoẹt máu. Hai thằng tôi được khiêng về trạm phẫu thuật tiền phương. Quái quỷ thế nào Giảo Róm cũng bị phục kích, mảnh phóng lựu đạn găm vào mông. Khi chúng tôi đến, Giảo đang nằm sấp rên hừ hừ, mặt mũi tang tóc như cha chết.


Trạm phẫu dã chiến chỉ có một ông bác sĩ già người Hà Nội và bốn cô y tá kiêm hộ lý. Khốn nạn cho Hành, cái thằng coi trời bằng vung ấy, đang bị thương mặt mũi vêu vao mà thoạt nhìn thấy cô y tá Thục, hắn đã như bị hút mất hồn. Thục mảnh mai như cành liễu. Giữa nơi bom đạn ngợp trời, thương binh kẻ rên, người quát, thế mà lúc nào miệng cũng chúm chím cười. Trong khi ba cô gái cùng trạm bị con ma sốt rét rừng vặt trụi đầu, chỉ còn lơ thơ vài sợi tóc thì mái tóc Thục vẫn đen mượt mà, dài óng ả. Mỗi lần Thục đi qua, mùi hương bồ kết từ mái tóc cô bay ngan ngát làm mặt Hành cứ nghệt ra, trông đến tức cười. Hành mê mệt Thục. Hình như tình yêu là cái gì đấy vô cùng bí ẩn và có ngôn ngữ riêng của nó. Đâu chỉ vài ba ngày, hai người đã bắt được tín hiệu trái tim nhau từ ánh mắt của nhau. Cũng từ đó, khi đêm xuống Hành chẳng còn rủ tôi ra bờ suối chơi như mọi lần, mà lẻn đi một mình. Nhiều đêm, khuya lắm hắn mới mò về. Như một đứa trẻ có lỗi, hắn len lén chui vô màn tôi nằm. Tôi thấy mùi hương bồ kết tỏa ra mơn man trên ngực áo hắn. Tôi biết đó là hương bồ kết lan sang từ mái tóc Thục. Một đêm, hắn xoay người ôm lấy tôi:


- Mày đã bao giờ thấy bình minh tím chưa?


- Bình minh tím? Ôi chao, lãng mạn quá đi mất! Xưa nay tao có nghe mấy ông nhà thơ khi cao hứng vẫn tán về cái màu tím hoàng hôn. Còn bình minh tím? Ô hô! Quả thật từ cha sinh mẹ đẻ tới giờ, tao mới nghe lần đầu!


- Đó là tao nhắc lại lời của Thục. Em bảo ở nơi này nhiều lúc mặt trời lên, rừng núi chung quanh cứ đẫm một màu tím ngát. Không bình minh tím thì là gì hở mày?


- Úi giời ôi! - Tôi không nhịn được cười - Yêu rồi! Nàng yêu rồi, mày ơi! Trên đời này làm gì có bình minh tím! Nàng bảo màu của con tim đấy! Khốt ơi là khốt!


*
* *


Đêm ấy, hai đứa nằm gác chân lên nhau như cái thuở nằm chung hầm mấy chục năm trước. Tiếng Hành rơi tõm vào đêm:


- Cái thằng Giảo Róm nó bịa chuyện với mày đấy. Nó mặc áo xống của lính mà đếch phải thằng lính. Sau này tao mới vỡ lẽ, thì ra ngày ấy hắn cũng mê mệt Thục. Nhưng sau nhiều phen tỏ tình bị Thục phớt lờ, lại thấy tao và em yêu nhau, hắn hận cả hai người. Ngày đó chưa làm gì được tao, nó chĩa mũi dùi vào Thục. Một trưa, tự dưng tao thấy ruột gan như lửa đốt. Nhìn sang sạp nằm của Giảo, thấy trống không, tao vội vã chạy ra đoạn suối Thục vẫn thường đến đó giặt quần áo cho thương binh. Mày còn lạ gì đoạn suối ấy, vắng vẻ, lại xa trạm, có nhiều hòn đá phẳng như tấm phản, nên giặt giũ thật tiện. Còn cách con suối một quãng, tao nghe tiếng kêu cứu của Thục. Chạy vội tới, máu tao sôi lên. Trước mặt tao thằng Giảo Róm đang định giở trò với Thục. Bằng một cú đá tao khiến hắn bay ra khỏi người Thục, rơi tõm xuống suối. Hắn lóp ngóp bò lên bờ, lấm lét quay con mắt rắn lại nhìn tao. Rồi hệt một con rắn phải đòn, hắn chui vô rừng, lủi mất dạng…!


- Sao… sao… ngày đó mày chẳng nói gì với tao?


- Việc hay hớm chi mà nói cho xấu mặt thằng lính hở mày! Nếu nói ra, vì cú dửng mỡ này, hắn sẽ bị kỷ luật, cũng tội. Cho hắn cú đá đã là bài học nhớ đời rồi. Ai dè, hắn lấy ân làm oán! Sau vụ đó, hắn thù tao. Giải phóng Sài Gòn, hắn đã giữ chức Trưởng Ban cán bộ. Lúc mày còn ở đơn vị, hắn còn gờm mày, chưa dám làm gì tao. Khi mày rời đơn vị ra Hà Nội học đại học, hắn lập tức ra tay. Hắn phù phép biến chuyện của hắn thành chuyện tao, trơ tráo tuyên bố là tao tha hoá đạo đức, làm vấy bẩn danh dự người cán bộ, sĩ quan. Thế rồi khi cả sư đoàn xôn xao cái việc tầy trời tay tiểu đoàn trưởng Hành cưỡng bức cô y tá Mặt trận, đúng sai chưa biết mô tê, tao đột ngột có quyết định phục viên. Cầm cái quyết định chính hắn đưa, chân tay tao rụng rời. Từ một chiến sĩ, tao đánh dư trăm trận, trở thành tiểu đoàn trưởng một đơn vị đặc công anh hùng. Vậy mà khi cả nước hân hoan chiến thắng thì tao bị hắn cho ra rìa. Thật lòng, nếu ngày đó, tao lên gặp Sư trưởng hay Chính ủy nói hết mọi nhẽ thì chắc sự việc đã khác. Nhưng tao không thích thế. Tao chẳng quen xin xỏ. Tính tao, mày còn lạ gì! Tao mang ba lô rời Sài Gòn về ngay Hà Tĩnh tìm Thục. Nhưng mày ơi! Muộn cả rồi!


*
* *


Trời chưa sáng hẳn, Hành đã kéo tôi dậy. Sáng rừng miền Tây se se lạnh. Sương sa mù mặt cỏ làm cho màu đất đỏ sẫm lại, xin xỉn như màu tiết luộc. Từng đợt gió từ rừng xa ào đến rồi chợt tan nhanh trên những tán cây ngút ngát. Hạnh, vợ Hành lặng lẽ sắp các thứ trái cây và mấy búp nhang vào làn. Nét mặt cô hết sức thành kính. “Lên chùa rồi! - Tôi chắc mẩm - Hẳn bụi trần vương vấn quá, cay nghiệt quá, khiến Hành tìm đến cõi thiền chăng?”. Nghĩ thì nghĩ thế, nhưng thấy vợ chồng Hành chẳng ai nói lời nào, tôi đành im lặng. Chúng tôi không đi ra cổng mà vòng theo lối sau nhà. Tới lối rẽ rực vàng một màu hoa vạn thọ, có một ngọn gò ai đó xây bằng đá xanh, to cao lừng lững, Hành im lặng kéo tôi ngồi xuống bên gò:


- Giờ thì tao kể hết cho mày nghe. Ngày tao về Hà Tĩnh tìm Thục mới hay em đã hy sinh, mày ạ. Khốn nỗi trong giấy báo tử, họ chỉ ghi em hy sinh ở mặt trận phía Nam, chẳng biết cụ thể em nằm lại nơi nào. Tao liền đáp tàu ra Hà Nội tìm ông bác sĩ già ngày ấy. Nghe tao hỏi, ông rân rấn nước mắt kể rằng: Đầu năm 1975, trước ngày giải phóng Sài Gòn vài tháng, một quả bom chẳng hiểu máy bay địch ném xuống từ khi nào nằm sâu dưới đất, phát nổ đúng nơi Thục đi hái rau rừng về cải thiện cho thương binh. Nghe tiếng bom, cả trạm chạy ùa ra thì chỉ thấy trên cành cây cạnh hố bom sâu hoắm một mảnh quân phục đẫm máu, bay phơ phất.


Hành im lặng. Khuôn mặt hắn bỗng trở nên hốc hác:


- Tao tìm được đến nơi em hy sinh, nhìn cái hố bom mà không sao đứng nổi nữa. Từ ngày em mất đến khi tao đến được với em gần 5 tháng rồi. Còn chi nữa đâu mày! Nhưng tao cứ như thằng điên, nhào xuống hố bom dùng hai bàn tay mình vừa bới, vừa đào, may ra thân thể em còn sót lại cái gì, dù chỉ là một cái cúc, vài sợi tóc, một mảnh áo quần hay cái kẹp tóc… Tao săm soi từng vốc đất, từng hòn đá. Rồi tao cuống cuồng chạy ra chung quanh, hết tìm dưới đất lại ngước lên cây, mãi đến khi gần như ngất xỉu. Xòe bàn tay ra, ngón nào ngón nấy tơ tướp, ứa máu, tao hoàn toàn thất vọng. Hết cả rồi! Giá như lúc ấy tao khóc được. Mày ơi! Mắt tao ráo hoảnh, nước mắt tao khô khốc. Đêm ấy, tao vùi mình nằm trong hố bom để được nằm cùng xương thịt của em. Lạ thật mày ạ, suốt đêm hương bồ kết cứ quấn quýt lấy tao. Tao lả người thiếp đi trong mùi hương mông lung ấy...


Rồi Hành vẫy tôi lại che gió cho mình thắp mấy nén nhang. Rồi Hành lặng lẽ quỳ xuống bên ngọn gò, thì thầm:


- Thục ơi! Anh Xuân, bạn anh và em tìm đến với chúng mình đây này. Thục ơi…!


Tôi đứng chết lặng như trời trồng, trân trân nhìn ngọn gò, mãi mới nói được:


- Vậy ra Thục đây ư? Thảo nào…!


Rồi thảng thốt, tôi hỏi Hành mà như tự nói với mình:


- Sao không đưa Thục về nghĩa trang liệt sĩ cho có anh em đồng đội mà để Thục nằm ở đây một mình?


Không trả lời câu hỏi trống không của tôi, Hành lóng ngóng trao mấy nén nhang cho tôi và Hạnh. Chúng tôi kính cẩn cắm nhang lên mộ. Trong mùi hương trầm mặc, xa vắng, bỗng dưng tôi thấy mơn man một làn gió là lạ, run rẩy quấn quanh mình. Rồi mùi hương bồ kết như từ một mái tóc vừa gội xong, đẫm nắng, thoang thoảng, lúc chợt sóng sánh, khi gần, khi xa. Tiếng Hành như vọng về từ đâu xa lắm:


- Lần nào thắp hương cho Thục, tao cũng thấy mùi hương bồ kết thế này. Thục về đấy, mày ạ. Lúc nãy mày hỏi sao không đưa em về an nghỉ ở nghĩa trang. Mày ơi, giá như em còn một chút hình hài, tao sẽ đưa em về nghĩa trang liệt sĩ quê nhà. Đằng này, em hy sinh, một tấm hình cũng chẳng có, chỉ còn ngôi mộ này thôi. Thân xác em đã trộn vào đất thì hương hồn em cũng hoà vào đất cả rồi. Suốt hơn mười ngày trời, tao nhặt nhạnh, vun vén hết đất đá, vun vén tất cả những gì bị bom nổ hất tung lên lấp xuống hố bom, những mong vun hết xương thịt, ruột máu của em bị bom làm tan nát xuống đó, đắp thành ngôi mộ này. Tao sắm một bát nhang, xin em cho tao được ở lại đây với em. Đêm ấy em lại về với tao, mày ạ! Em ngồi xuống bên tao, nhìn tao mỉm cười, lặng lẽ gật đầu. Thế là tao quyết định sinh cơ, lập nghiệp nơi này.


Tôi trân trân nhìn Hành như mới gặp lần đầu. Hạnh từ nãy đến giờ ngồi im lặng bấy giờ mới lên tiếng:


- Khi gia đình em nhận được thư anh Hành báo tin xây mộ cho chị Thục, bố con em liền vô đây. Lúc đó em vừa tốt nghiệp Cao đẳng sư phạm Hà Tĩnh. Em gặp nhà em bây giờ. Cảm tấm lòng anh ấy, tự dưng em thấy nếu mình rời xa nơi này là mình thành kẻ bội bạc. Em xin phép bố mẹ được ở lại với anh, với chị…!


- Với lại, - Tiếng Hành đã tươi tỉnh – Làm cái thằng người mà cứ ngồi ôm khư khư lấy nỗi đau thì sống thế quái nào được! Thục sẽ buồn biết mấy khi thấy tao chẳng còn là thằng Hành của em ngày xưa nữa. Đúng không mày?


Hành kéo tôi đứng dậy. Tôi vẫn còn bàng hoàng vì câu chuyện quá bất ngờ. Phía đông mặt trời đang lên. Cả cánh rừng, cả ngôi mộ Thục, cả Hành, cả Hạnh, lung linh trong ánh bình minh huyền ảo. Tôi sững sờ. Kì lạ, sao bình minh nơi này cứ như cháy rực một màu lửa tím…!


Xuân Đan, Nghi Xuân tháng 7/2012

Nguyễn Xuân Diệu