02:08 10/02/2013

Hình tượng con rắn trong tâm thức dân gian

Trong mười hai con giáp, rắn là con giáp thứ 6 và có vị trí quan trọng trong đời sống văn hóa, tín ngưỡng và phong tục của dân tộc. Là loài động vật hoang dã tồn tại trong thiên nhiên, nhưng rắn không tách khỏi đời sống con người.

Trong mười hai con giáp, rắn là con giáp thứ 6 và có vị trí quan trọng trong đời sống văn hóa, tín ngưỡng và phong tục của dân tộc. Là loài động vật hoang dã tồn tại trong thiên nhiên, nhưng rắn không tách khỏi đời sống con người. Từ xa xưa, trong sinh hoạt văn hóa dân gian, rắn rất ít khi vắng mặt.



Trước hết, rắn có nhiều loại, dựa vào tên gọi, phổ biến nhất có: cạp nia, cạp nong, hổ mang, mai gầm, rắn lục, rắn ráo...


Dựa vào màu sắc có rắn lục (màu xanh lá cây), rắn lục hoa cân (màu xanh điểm xuyết những sọc đỏ); rắn lục đầu bạc (các sọc trắng trên bộ da đen bóng); Cạp nong đầu đỏ (phần đầu và đuôi đỏ chót, thân đen); rắn lá khô đốm (phần thân màu đỏ điểm xuyết những đốm đen) rắn lửa, rắn hổ đất (màu đen xám), rắn sọc dưa (vằn sọc đen trắng pha vào nhau)... Căn cứ vào đặc điểm, tính chất, người ta lại chia ra: Rắn hổ ngựa (loại rắn phóng, chạy nhanh như ngựa sải), rắn hổ hành (lúc nào cũng có mùi hành); Rắn hổ đất (thân đen bóng, đen mốc giống màu đất); rắn chuông (dùng đuôi để phát ra những tiếng kêu để xua đuổi, cảnh báo kẻ thù)...


Trong tâm thức dân gian người Việt, loài rắn có nhiều đặc điểm "tương đồng" với tính cách, hành động của con người:


Những người tính cách thẳng thắn thường được ví với: "Thẳng như rắn bò".


Những kẻ trâng tráo, mắt luôn thao láo liếc ngang, nhìn dọc thì được xem là: "Thao láo như mắt rắn ráo".


Những kẻ hay kêu la: "Oai oái như rắn bắt nhái",


Người hay gân cổ cãi cọ: "Bạnh cổ như cổ hổ mang",


Có hành động lén lút, sợ sệt: "Len lét như rắn mùng năm"; Kẻ hay bịa đặt, ba hoa quá sự thật: "vẽ rắn thêm chân". Nơi nhiều nguy hiểm: "hang hùm miệng rắn". Đối với những kẻ phản bội gia đình, Tổ quốc: "Cõng rắn cắn gà nhà"...


Trong đồng dao, ca dao, câu đối của người lao động xưa cũng có nhiều hình ảnh đề cập đến rắn: "Bao giờ cho đến tháng ba, ếch cắn cổ rắn tha ra ngoài đồng", "Rồng rắn lên cây, có cây núc nác, có nhà hiển vinh","Cây xương rồng, giồng đất rắn, long vẫn hoàn long, Quả dưa chuột, truột một gang, thử ăn thì thử!"


Rắn thì độc nhưng thịt rắn là món ăn đặc sản dân gian khoái khẩu:


Cần chi cá lóc, cá trê


Thịt chuột, thịt rắn nhậu mê hơn nhiều


Thịt rắn nấu chung với thịt mèo là món ăn “Long hổ đấu” nổi tiếng, nấu chung với thịt gà là món “Long phụng phối”.


Rắn cũng đi vào chuyện tình trao đổi giữa trai gái trong lễ hội:


Con rắn hổ mây nằm cây thục địa


Con ngựa nhà trời ăn cỏ chỉ thiên


Phận em là gái thuyền quyên


Ai mà đối đặng kết nguyền phu thê


Bên cạnh đó, rắn còn được dùng để chỉ sự may rủi:


“Hễ đi gặp rắn thì may


Về nhà gặp rắn thì hay phải đòn”


Từ xa xưa, nhân dân ta đã biết bắt rắn để ngâm rượu theo từng bộ. Bình rượu tam xà (gồm hổ mang, rắn cạp nong, rắn ráo) hoặc ngũ xà (thêm rắn hổ trâu và rắn ba chỉ) là thuốc bổ, lại chữa được các bệnh tê thấp, đau các khớp xuơng. Nọc rắn dùng để chế thuốc tê thấp, viêm khớp, viêm dây thần kinh, giảm đau và bệnh phong. Hình biểu trưng của ngành dược hiện đại là con rắn.


Xuất phát từ môi trường tự nhiên gắn với điều kiện sông nước, đầm lầy, đời sống của cư dân nông nghiệp trồng lúa của người Việt cổ phải phụ thuộc vào nguồn nước. Trong tâm thức dân gian, hình dạng và đặc điểm di chuyển của loài rắn là cơ sở để người xưa hình dung và đồng nhất rắn với những con sông - nguồn nước (nếu nhìn con sông từ trên cao xuống thì rất giống với hình ảnh một con rắn đang bò). Một đặc điểm khác của loài rắn hổ mang (khi nổi giận) thường phát ra tiếng gió phì phì... (có lẽ đây là những lý do rắn mang ý nghĩa biểu trưng của bão). Hình ảnh tia chớp (dấu hiệu của mưa) có những nét tương đồng với lưỡi rắn; màu sắc và các sọc của loài rắn chính là cơ sở để con người liên hệ rắn với cầu vồng (rắn cầu vồng). Các cơn lốc xoáy với hình thù uốn lượn đã được nhân cách hóa thành hình tượng rắn. Loài rắn có đặc tính lột da, do vậy nó còn biểu trưng cho sự tái sinh, bất tử.


Điểm qua kho tàng tục ngữ, thành ngữ, ca dao của người Việt, còn có rất nhiều hình ảnh đề cập đến rắn:


Rắn rết bò vào, cóc nhái bò ra: Chỉ mối quan hệ xử thế của kẻ độc ác như rắn rết không thể chung sống với nhau được, nhất là cóc, nhái là đối tượng luôn bị chúng rình mò để ăn thịt. Do vậy qui luật sống trong xã hội ai cũng tránh người hung ác, hiểm độc như rắn rết.


Rồng mạnh không ép rắn thổ địa: Người có quyền hành không chế ngự được kẻ ác ôn ở địa phương.


Vẽ rồng vẽ rắn: Kẻ vô tích sự, chẳng làm nên việc gì mà còn bày vẽ lãng phí; tốn công sức, tiền của, lại còn phản tác dụng.


Vẽ rắn thêm chân: như "vẽ rồng vẽ rắn", chỉ những việc làm không cần thiết, thừa thãi phản tác dụng.


Rắn mất đầu: Người lãnh đạo đã mất, thì bộ phận bên dưới không làm được gì nữa.


Miệng hùm rắn độc: Chỉ nơi hiểm nguy độc địa, ai đến đó sẽ bị phân thây, tan xương nát thịt không thể sống sót trở về được.


Hùm tha rắn cắn: Không gặp tai ương này thì gặp hoạn nạn khác.


Khẩu Phật tâm xà: Kẻ đạo đức giả, miệng nói thương người, lòng dạ ác hiểm, hãm hại kẻ khác.


Khẩu xà tâm Phật: Người ngoài miệng bốp chát nóng nảy, nhưng bản chất bao dung, lòng dạ thẳng ngay, nhân đức.


Xà cung thạch hổ: Những kẻ hay nghi ngờ quàng xiên, thấy cây cung nghĩ là rắn độc, thấy hòn đá ngờ là cọp dữ.


Đầu rắn mắt chuột: ý nói người gian xảo.


Áp rắn vào ngực: Lầm lẫn, thiếu cảnh giác, đem rắn là loài độc hại áp vào ngực, có ngày bị nó cắn mạng vong.


Đánh rắn đánh đằng đầu: Sử dụng đòn chí mạng đối với kẻ hung ác để khỏi bị báo thù...


Rõ ràng, đề cập đến con rắn song cũng chính là bàn về con người vậy. Thế mới biết dân gian ta tinh tế và sâu sắc biết chừng nào. Nhân dịp năm mới Quý Tỵ, xin được kể ra vài điều thú vị về hình ảnh con rắn để hầu chuyện bạn đọc gần xa.



Trần Đức Tuấn