Trí tuệ nhân tạo (AI) không còn là khái niệm xa vời đối với giáo dục Việt Nam. Từ lớp học phổ thông đến giảng đường đại học, công nghệ này đang mở ra kỷ nguyên mới cho dạy và học. Nhưng để AI thật sự trở thành động lực phát triển, giáo dục Việt Nam cần chuyển từ nhận thức sang hành động, từ hiểu AI đến làm chủ AI một cách nhân văn và bền vững.
Kiến tạo nền giáo dục số
AI đang dần trở thành công cụ không thể thiếu trong mọi lĩnh vực, đặc biệt là giáo dục. Nếu trước đây công nghệ chỉ đóng vai trò hỗ trợ lưu trữ và truyền tải tri thức, thì nay AI đã có thể “phân tích”, “tư vấn” và “cá nhân hóa” lộ trình học tập cho từng học sinh.
Học sinh trường THPT chuyên Lê Hồng Phong TP Hồ Chí Minh tìm hiểu thông tin về app công nghệ mới.
Theo PGS.TS Nguyễn Xuân Hoàn, Hiệu trưởng Trường Đại học Công Thương TP Hồ Chí Minh, đây là cơ hội để giáo dục Việt Nam chuyển mình từ mô hình truyền thống sang mô hình giáo dục thông minh, nơi người học được thiết kế lộ trình phù hợp với năng lực, sở thích và định hướng nghề nghiệp của bản thân.
Từ góc độ chính sách, Nghị quyết số 71-NQ/TW của Bộ Chính trị xác định rõ nhiệm vụ “chuyển đổi số toàn diện, phổ cập và ứng dụng mạnh mẽ công nghệ số, trí tuệ nhân tạo trong giáo dục và đào tạo”. Đây không chỉ là định hướng chiến lược mà còn là yêu cầu cấp bách trong bối cảnh cạnh tranh nhân lực toàn cầu đang dịch chuyển nhanh sang nền kinh tế tri thức.
Theo TS Lê Thị Mai Hoa, Phó Vụ trưởng Vụ Giáo dục (Ban Tuyên giáo và Dân vận Trung ương), Việt Nam hiện dành tối thiểu 20% ngân sách nhà nước cho giáo dục – đào tạo, trong đó ít nhất 5% cho đầu tư phát triển, hướng tới hiện đại hóa cơ sở vật chất, công nghệ và đổi mới sáng tạo. Tuy nhiên, để tận dụng được cơ hội mà AI mang lại, cần tạo “liên kết động” giữa Nhà nước – nhà trường – doanh nghiệp – công nghệ, trong đó AI đóng vai trò như “hệ thần kinh trung ương” kết nối tri thức với thị trường lao động.
Ở bậc phổ thông, những mô hình tiên phong như Trường THPT chuyên Lê Hồng Phong (TP Hồ Chí Minh) đang cho thấy hướng đi đúng. Nhà trường đã đưa nội dung AI vào giảng dạy từ 7 năm nay, với ba cấp độ: phổ cập, ứng dụng nâng cao và nghiên cứu chuyên sâu. “Việc cho học sinh tiếp cận AI sớm không chỉ giúp các em hiểu về công nghệ mà quan trọng hơn là rèn luyện tư duy sáng tạo và năng lực thích ứng với tương lai”, Hiệu trưởng Phạm Thị Bé Hiền chia sẻ.
Tuy nhiên, điểm nghẽn lớn hiện nay là thiếu đội ngũ giáo viên được đào tạo bài bản về AI. “Nhà trường phải hợp đồng với giảng viên và kỹ sư AI, đồng thời bồi dưỡng sâu cho giáo viên Tin học để đảm bảo chất lượng giảng dạy”, bà Hiền nói. Điều này phản ánh nhu cầu cấp thiết về chính sách đào tạo và bồi dưỡng năng lực số cho giáo viên, một trong những trụ cột để giáo dục Việt Nam bước vào thời đại mới.
Ở bậc đại học, các cơ sở như Đại học Công Thương TP Hồ Chí Minh đang đầu tư mạnh mẽ cho chuyển đổi số toàn diện, từ hạ tầng công nghệ đến ứng dụng trong đào tạo và quản lý. Tuy nhiên, theo PGS.TS Nguyễn Xuân Hoàn, hệ thống phần mềm và dữ liệu dùng chung còn thiếu đồng bộ, khiến việc khai thác AI chưa đạt hiệu quả tối ưu. Vì thế, cần xây dựng nền tảng dữ liệu dùng chung cho các trường, tránh tình trạng mỗi nơi phát triển một hệ thống riêng gây lãng phí nguồn lực.
Đạo đức - nền tảng cho giáo dục AI bền vững
Nếu AI được xem là “bộ não” của giáo dục tương lai thì đạo đức chính là trái tim bảo đảm cho sự phát triển bền vững. PGS.TS Nguyễn Văn Vũ, Phó Trưởng khoa CNTT Trường Đại học Khoa học Tự nhiên (ĐHQG TP Hồ Chí Minh), nhấn mạnh: “Câu hỏi không còn là có nên dùng AI trong giáo dục hay không, mà là sử dụng thế nào cho đúng và nhân văn”.
Sinh viên Trường Đại học Bách khoa - ĐHQG TP Hồ Chí Minh trong một buổi nghiên cứu ứng dụng công nghệ sinh học trong phòng thí nghiệm.
AI có thể giúp giáo viên chấm bài, tư vấn hướng nghiệp hay tạo nội dung học tập. Nhưng nếu không được quản lý bằng nguyên tắc đạo đức rõ ràng, những sai lệch trong dữ liệu hoặc định kiến trong lập trình có thể dẫn đến bất công cho người học. Vì vậy, Việt Nam cần sớm xây dựng Khung đạo đức AI trong giáo dục, bảo đảm công nghệ được ứng dụng công bằng, minh bạch và nhân văn.
TS Lê Thị Mai Hoa đưa ra sáu khuyến nghị quan trọng cho việc triển khai AI trong giáo dục: Xây dựng chương trình hiểu biết AI quốc gia cho học sinh và giáo viên ở tất cả các cấp học; đẩy mạnh đào tạo, bồi dưỡng giáo viên về kỹ năng số và đạo đức sử dụng AI; tích hợp AI vào các môn học STEM thay vì tách biệt thành môn riêng; xây dựng khung quy định về đạo đức học thuật và ứng dụng AI trong giảng dạy, nghiên cứu; phát triển hạ tầng số và nền tảng AI “Make in Vietnam” phù hợp với ngôn ngữ và dữ liệu tiếng Việt và đẩy mạnh tuyên truyền, phổ cập nhận thức, khơi dậy tinh thần đổi mới sáng tạo trong đội ngũ giáo viên và học sinh.
Cùng quan điểm, GS.TS Lê Anh Vinh, Viện trưởng Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam cho rằng, việc triển khai AI trong giáo dục phổ thông cần khung chính sách nhất quán, chương trình học linh hoạt, cập nhật thường xuyên. Đồng thời, cần ưu tiên đào tạo giáo viên, phát triển tài liệu học tập và dữ liệu mở tiếng Việt để thu hẹp khoảng cách vùng miền.
Phó Trưởng Ban Tuyên giáo và Dân vận Trung ương Huỳnh Thành Đạt nhấn mạnh, cần sớm ban hành Khung năng lực và Khung đạo đức AI trong trường học, cùng cơ chế Quỹ chuyển đổi số trong giáo dục đại học nhằm thu hút đầu tư xã hội hóa và hỗ trợ các trường tiên phong. “Cộng đồng doanh nghiệp cũng cần thay đổi tư duy, không chỉ là người sử dụng lao động mà là người đồng kiến tạo nguồn nhân lực tương lai”, ông Thành Đạt nói.
AI có thể giúp con người học nhanh hơn, hiểu sâu hơn, nhưng chỉ con người mới có thể dạy con người biết sống đúng, trung thực và nhân ái. Vì vậy, trong mọi mô hình giáo dục tương lai, con người vẫn là trung tâm, dẫn dắt công nghệ chứ không bị công nghệ dẫn dắt.
Khi nhận thức đã chuyển hóa thành hành động và công nghệ được định hướng bằng đạo đức, trí tuệ nhân tạo sẽ không thay thế con người, mà trở thành người bạn đồng hành cùng giáo dục Việt Nam tiến vào kỷ nguyên mới – một nền giáo dục sáng tạo, bao dung và bền vững.