Dự thảo Luật Trí tuệ nhân tạo đang được đưa ra xem xét, thảo luận tại Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV. Đánh giá về dự thảo Luật này, hầu hết các ý kiến chuyên gia đều nhất trí về sự cần thiết phải ban hành Luật, coi đây là bước đi quan trọng nhằm tạo hành lang pháp lý đầy đủ, đồng bộ cho sự phát triển và ứng dụng AI trong bối cảnh chuyển đổi số diễn ra mạnh mẽ trên toàn cầu.
Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Nguyễn Mạnh Hùng, thừa uỷ quyền của Thủ tướng Chính phủ trình bày Tờ trình dự án Luật Trí tuệ nhân tạo. Ảnh: Doãn Tấn/TTXVN
Các chuyên gia, nhà khoa học cho rằng việc ban hành Luật Trí tuệ nhân tạo không chỉ đáp ứng yêu cầu cấp bách về quản lý, mà còn mở ra cơ hội thúc đẩy đổi mới sáng tạo, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, bảo đảm an toàn, an ninh và quyền lợi của người dân, doanh nghiệp trong môi trường số. Đây cũng là một trong những giải pháp quan trọng để thể chế hóa chủ trương, định hướng lớn của Đảng và Nhà nước về phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, phù hợp với tinh thần Nghị quyết số 57-NQ/TW về đột phá phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.
Thích ứng với sự phát triển của khoa học công nghệ
Theo Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Nguyễn Mạnh Hùng, dự thảo Luật Trí tuệ nhân tạo gồm 8 Chương với 36 điều đảm bảo thể chế hóa các chủ trương, định hướng đã được xác định trong các văn kiện, nghị quyết của Đảng và Nhà nước.
Luật Trí tuệ nhân tạo là luật khung, linh hoạt và thích ứng với sự phát triển của công nghệ. Luật quy định một cách có hệ thống, toàn diện các biện pháp nhằm cân bằng giữa quản lý và thúc đẩy hoạt động nghiên cứu, phát triển, triển khai và ứng dụng trí tuệ nhân tạo tại Việt Nam.
Luật Trí tuệ nhân tạo đặt con người làm trung tâm với nguyên tắc tối cao là trí tuệ nhân tạo (AI) phục vụ con người, không thay thế con người, con người giám sát trí tuệ nhân tạo ở những quyết định trọng yếu; trí tuệ nhân tạo phải minh bạch, trách nhiệm và an toàn.
Luật Trí tuệ nhân tạo quản lý hệ thống trí tuệ nhân tạo theo mức độ rủi ro, khuyến khích phát triển trí tuệ nhân tạo trong nước và tự chủ về trí tuệ nhân tạo, lấy trí tuệ nhân tạo làm động lực tăng trưởng nhanh, bền vững và bảo đảm chủ quyền số quốc gia.
Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Nguyễn Mạnh Hùng đánh giá, nội dung Luật Trí tuệ nhân tạo kế thừa và bãi bỏ các quy định về trí tuệ nhân tạo tại Luật Công nghiệp công nghệ số số 71/2025/QH15; bổ sung các "khoảng trống" pháp lý để hoàn thiện pháp luật về trí tuệ nhân tạo. Cùng với đó, tham khảo có chọn lọc pháp luật và kinh nghiệm thực tiễn về xu hướng phát triển trí tuệ nhân tạo của một số quốc gia phù hợp với điều kiện thực tiễn Việt Nam, pháp luật và điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
Mở - Minh bạch - Cộng sinh
Đóng góp ý kiến đối với Dự thảo Luật Trí tuệ nhân tạo, Tiến sỹ Đinh Quang Toàn, Viện trưởng Viện Đổi mới sáng tạo và Kinh tế số (Trường Đại học Công nghệ giao thông vận tải) đánh giá: Dự thảo Luật AI năm 2025 là bước tiến thể chế đột phá của Việt Nam, vừa đảm bảo an toàn, nhân văn và chủ quyền số, vừa thúc đẩy đổi mới sáng tạo và phát triển thị trường AI nội địa. Nếu được hoàn thiện theo hướng “mở - minh bạch - thử nghiệm - cộng sinh”, Luật này sẽ trở thành nền tảng pháp lý chiến lược giúp Việt Nam bắt kịp làn sóng AI toàn cầu và chủ động phát triển kinh tế số.
Việc ban hành Luật sẽ tạo điều kiện phát triển nền kinh tế số, kinh tế tri thức, nâng cao năng suất lao động và hiệu quả quản trị; góp phần giảm bất bình đẳng vùng miền, đưa công nghệ đến nông thôn, giáo dục, y tế và dịch vụ công.
Về ý nghĩa khoa học - công nghệ, Luật khuyến khích nghiên cứu, đổi mới sáng tạo, hợp tác quốc tế trong lĩnh vực AI; hỗ trợ xây dựng Mạng lưới Hạ tầng AI Quốc gia và các trung tâm dữ liệu, siêu máy tính, phục vụ phát triển công nghệ lõi. Về ý nghĩa nhân văn - xã hội, Luật đảm bảo AI phát triển theo hướng “lấy con người làm trung tâm”, tôn trọng phẩm giá, quyền riêng tư và bình đẳng; đồng thời, cân bằng giữa lợi ích phát triển và bảo vệ con người, góp phần phát triển bền vững, xanh và bao trùm.
Góp ý cụ thể cho các nội dung trong dự thảo, Tiến sỹ Đinh Quang Toàn đề cập đến nội dung quản lý theo rủi ro tại Điều 10 và Điều 11 - Chương II (Phân loại hệ thống AI theo mức độ rủi ro và áp dụng phân loại), tập trung vào 4 nhóm rủi ro: Rủi ro không chấp nhận được - bị cấm; Rủi ro cao - phải đánh giá sự phù hợp, đăng ký, lưu vết, giải trình; Rủi ro trung bình - cần minh bạch, gắn nhãn, cảnh báo người dùng; Rủi ro thấp - tự nguyện áp dụng tiêu chuẩn mở. Tiến sỹ Đinh Quang Toàn cho rằng, cần có danh mục cụ thể hệ thống AI rủi ro cao, cập nhật định kỳ; quy trình đánh giá - giám sát - hậu kiểm cần rõ ràng hơn, cần thiết lập “Danh mục hệ thống AI rủi ro cao” do Bộ Khoa học và Công nghệ công bố và cập nhật hằng năm.
Đối với các nội dung liên quan đến cơ chế vận hành có kiểm soát (AI Sandbox), dự thảo nêu rõ: “Thử nghiệm có kiểm soát” (sandbox) là cơ chế cho phép thử nghiệm hệ thống AI đổi mới trong môi trường thực tế nhưng có giới hạn về phạm vi, thời gian, đối tượng, biện pháp giám sát, nhằm đánh giá an toàn, hiệu năng, tác động, khả năng tuân thủ pháp luật. Cơ quan nhà nước có quyền cho phép, giám sát và đánh giá để quyết định mở rộng hoặc dừng triển khai.
Tiến sỹ Đinh Quang Toàn đề xuất, dự thảo nên quy định rõ tiêu chí chọn mô hình sandbox, trách nhiệm cơ quan quản lý và chính sách bảo vệ người tham gia thử nghiệm, cơ chế chia sẻ dữ liệu thử nghiệm và bảo vệ quyền người tham gia. Ông cũng cho rằng, cần xây dựng cổng AI Sandbox trực tuyến kết nối Bộ Khoa học và Công nghệ với địa phương.
Tham gia vào quy trình phát triển ứng dụng và hệ thống AI
Nhận xét về dự thảo Luật Trí tuệ nhân tạo, ông Nguyễn Thế Trung - Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty DTT, thành viên Tổ công tác giúp Ủy ban quốc gia về Chính phủ số cho rằng, đây không chỉ là một văn bản pháp lý, mà còn là một bản tuyên ngôn chiến lược, thể hiện tầm nhìn và khát vọng của Việt Nam trong việc làm chủ và phát triển công nghệ Trí tuệ nhân tạo (AI) một cách có trách nhiệm.
Theo ông Nguyễn Thế Trung, công nghệ AI đang phát triển như vũ bão trên toàn cầu. Nhiều quốc gia đang lựa chọn công nghệ AI làm trụ cột của chiến lược phát triển. Việc Việt Nam ban hành Nghị quyết 57-NQ/TW là bước đi táo bạo nhằm tận dụng AI như một động lực mới cho sự phát triển bền vững, công bằng và bao trùm. Tại Nghị quyết 57-NQ/TW, Việt Nam đặt mục tiêu tham vọng là đến năm 2030, Việt Nam thuộc nhóm 3 nước dẫn đầu khu vực Đông Nam Á về nghiên cứu và phát triển AI, và đến năm 2045, trở thành một trong các trung tâm công nghiệp công nghệ số của khu vực.
Trong giai đoạn 2026 - 2030, AI được dự báo sẽ tạo hơn 170 triệu việc làm mới và đóng góp khoảng 5.000 tỷ USD vào nền kinh tế thế giới. Tại Việt Nam, từ nay đến năm 2030, lợi ích kinh tế do AI mang lại có thể lên tới 79 tỷ USD.
Để tận dụng được nhiều nhất những lợi thế AI mang lại, ông Nguyễn Thế Trung cho rằng các doanh nghiệp Việt có thể tham gia hiệu quả vào quy trình phát triển ứng dụng và hệ thống AI.
“Đây là trái tim của hệ sinh thái AI quốc gia, bao gồm phần lớn các doanh nghiệp công nghệ và startup Việt Nam. Do đó, chính sách hỗ trợ cần gắn chặt với thực tế này, ưu tiên hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ và vừa các chính sách về miễn giảm phí, cung cấp bộ hồ sơ tuân thủ rút gọn... Dự thảo Luật AI hiện có đề xuất đơn giản hóa hồ sơ như sử dụng “báo cáo đánh giá tác động hợp nhất” giúp doanh nghiệp thoát khỏi ma trận tuân thủ khi một sản phẩm AI liên quan đến nhiều luật khác nhau. Giải pháp này có thể xem một trong những cải cách thủ tục hành chính đột phá, giúp tiết kiệm chi phí và thời gian khổng lồ.
Việc hoàn thiện và ban hành Luật Trí tuệ nhân tạo sẽ góp phần trực tiếp thể chế hóa các định hướng lớn tại Nghị quyết số 57-NQ/TW, tạo khuôn khổ pháp lý đồng bộ để thúc đẩy khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia; đồng thời mở ra không gian phát triển mới, góp phần hiện thực hóa mục tiêu đến năm 2045 Việt Nam trở thành nước phát triển, thu nhập cao; lĩnh vực khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số phát triển vững chắc.