10:18 01/10/2021

Dư địa nguồn lực ngân hàng hỗ trợ doanh nghiệp không còn nhiều

Tại Diễn đàn chính sách "Hỗ trợ doanh nghiệp trong đại dịch COVID-19: Từ chính sách đến thực tiễn” diễn ra ngày 1/10, TS Nguyễn Quốc Hùng, Tổng thư ký Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam (VNBA) cho biết: Dư địa về nguồn lực để ngành ngân hàng hỗ trợ doanh nghiệp hiện không còn nhiều, cần sự vào cuộc của các cơ quan chức năng giúp chính sách thực thi được được dài hơi và hiệu quả hơn.

Chú thích ảnh
Khó khăn nhất của doanh nghiệp thời điểm này chính là sức khỏe tài chính. Ảnh: TTXVN.

Hơn 1 năm qua, hệ thống ngân hàng đã đồng loạt có các giải pháp hỗ trợ, giảm lãi suất cho các doanh nghiệp. Tính từ ngày 15/7 đến ngày 31/8, 16 ngân hàng thương mại đã giảm lãi vay theo cam kết với VNBA với tổng tiền lãi đã giảm lũy cho các khách hàng là 8.865 tỷ đồng, đạt 43,01% so với cam kết.

“Tổ chức tín dụng (TCTD) cũng là doanh nghiệp, chịu ảnh hưởng từ đại dịch nhưng đã phải dùng lợi nhuận của chính mình để chia sẻ với doanh nghiệp. Những khoản nợ dù đã được cơ cấu lại nhưng bản chất nền tảng vẫn là nợ xấu, chỉ khác là ngân hàng không phải trích lập ngay dự phòng rủi ro. Nhưng Thông tư 14 mới sửa đổi năm 2021 lại yêu cầu các ngân hàng phải trích lập dự phòng rủi ro 3 năm với mức 30% năm nay đã tạo áp lực lớn lên TCTD”, TS Nguyễn Quốc Hùng cho biết.

Theo Tổng thư ký VNBA, những khoản nợ nhóm 1 cũng có thể bị ảnh hưởng, bởi khó khăn của doanh nghiệp luôn tiềm ẩn, chuỗi cung ứng bị đứt gãy càng khiến nguy cơ nợ xấu trong tương lai rất cao. Ngoài ra, ngân hàng còn có những khoản lãi dự thu, những khoản dù quyết toán rồi nhưng không thu được thì vẫn phải thoái thu. Do đó, lợi nhuận trong tương lai của các TCTD có thể sụt giảm, ảnh hưởng lớn đến tình hình kinh doanh. Trong khi đó, từ đầu năm đến nay, lượng tiền gửi dân cư đến TCTD giảm nên khả năng huy động vốn cũng có chiều hướng giảm. Điều này kéo theo nguy cơ khó khăn về nguồn lực hỗ trợ doanh nghiệp sau dịch bệnh, dẫn tới áp lực thanh khoản có thể xảy ra trong tương lai.

Trước nhiều ý kiến nêu những khó khăn trong tiếp cận vốn của doanh nghiệp, TS Nguyễn Quốc Hùng cho biết: Ngân hàng hỗ trợ doanh nghiệp hoàn toàn từ tiền của các ngân hàng, không có nguồn lực nào khác. Vì vậy theo quy định, doanh nghiệp có nợ xấu không được vay vốn cần tiếp cận từ 2 phía. Nếu doanh nghiệp có nợ xấu, nhưng chứng minh được khả năng phục hồi, trả được nợ thì ngân hàng có thể xem xét cấp tín dụng. Tác động của COVID-19 đến các TCTD có độ trễ, hiện ngân hàng đồng ý cho doanh nghiệp vay nhưng nếu doanh nghiệp không trả được nợ, ngân hàng là người chịu ảnh hưởng.

Để các TCTD có thêm nguồn lực và điều kiện hỗ trợ doanh nghiệp, chính sách hỗ trợ cần phải được thực hiện dài hơi. “Nếu như có điều kiện, NHNN nên gộp Thông tư 01, 03 và 14 vào làm một cho thống nhất và phù hợp. Hiện 3 thông tư này cùng có hiệu lực, bản thân TCTD hiệu và hạch toán theo cũng ít nhiều khó khăn, nên lại càng khó cho các doanh nghiệp muốn thực hiện”, TS Nguyễn Quốc Hùng cho biết. 

TS Nguyễn Quốc Hùng cho rằng: Chính sách tiền tệ đã sử dụng hết khả năng nên cần sự vào cuộc của chính sách tài khóa. Chính phủ có thể phát hành trái phiếu, vay từ ngân hàng trung ương như các quốc gia khác… để có đủ nguồn lực hỗ trợ nền kinh tế.

Đại diện VNBA đã so sánh khủng hoảng dịch bệnh năm 2021 với khủng hoảng suy thoái toàn cầu năm 2009, khi đó Chính phủ đã có gói hỗ trợ nền kinh tế lên tới 145.000 tỷ đồng, trong đó hỗ trợ lãi suất cho doanh nghiệp lên đến 1 tỷ USD. Nhưng hậu quả là phải thành lập Công ty quản lý tài sản các TCTD (VAMC) vào năm 2014. 

Theo ông Nguyễn Quốc Hùng, chính sách phải đủ mạnh để đảm bảo quyền lợi của Hội viên khi giải quyết tham gia hỗ trợ doanh nghiệp,nhưng rất không mong muốn để lại khoản nợ xấu khổng lồ trong vài năm nữa khiến ngân hàng lại lo ngại mang danh “thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng”.

“Chính vì những lo lắng nên các TCTD phải thận trọng khi cho vay vốn. Để tăng khả năng tiếp cận vốn cho doanh nghiệp, NHNN phải ban hành cơ chế, chính sách, đừng đặt doanh nghiệp là đối tượng, phải coi họ là đối tác. Hơn nữa, việc ban hành chính sách cần sự đồng hành của các bộ, ngành liên quan”, TS. Nguyễn Quốc Hùng đề xuất.

Trước đó, để tiếp thêm nguồn lực cho ngân hàng tiếp tục hỗ trợ doanh nghiệp, VNBA kiến nghị Chính phủ xem xét tổng kết Nghị quyết 42 của Quốc hội về thí điểm xử lý nợ xấu, để từ đó kiến nghị Quốc hội cho phép ban hành Luật xử lý nợ xấu của các TCTD làm cơ sở đẩy nhanh công tác xử lý nợ xấu, góp phần nâng cao hiệu quả, chất lượng hoạt động của các TCTD.

VNBA cũng kiến nghị xem xét ban hành Nghị định về khoanh nợ đối với số dư nợ được cơ cấu nợ do ảnh hưởng bởi dịch COVID-19 tương tự như Nghị định 55/2015/NĐ-CP và Nghị định 116/2018/NĐ-CP về chính sách tín dụng cho nông nghiệp, nông thôn. Bởi có như vậy mới hỗ trợ được doanh nghiệp tiếp cận vốn ngân hàng sau khi kiểm soát được dịch bệnh để phục hồi sản xuất kinh doanh; đề nghị Bộ Kế hoạch và Đầu tư trình Chính phủ cho phép khoanh nợ đối với những khoản nợ đã được các TCTD cơ cấu nợ theo Thông tư 01, 03, 14 để tạo điều kiện cho doanh nghiệp được tiếp cận vốn tín dụng sau khi kiểm soát được dịch bệnh.

Bộ Tài chính cần hoàn thiện khung khổ pháp lý về hoạt động mua, bán nợ của các doanh nghiệp, khung pháp lý về hình thành, phát triển và quản lý thị trường mua, bán nợ; nghiên cứu, xây dựng khung khổ pháp lý cho hoạt động chứng khoán hóa các khoản nợ…

Hiện nay, giá cước phí tin nhắn dịch vụ mà các doanh nghiệp viễn thông đang áp dụng cho các TCTD cao gấp 3 lần so với tin nhắn thông thường. VNBA đề nghị Bộ Thông tin và Truyền thông chỉ đạo các doanh nghiệp viễn thông thực hiện điều chỉnh giảm giá cước tin nhắn đối với các dịch vụ tài chính ngân hàng nhằm hỗ trợ các TCTD tiếp tục duy trì việc miễn, giảm phí cho khách hàng bị ảnh hưởng COVID-19.

Chú thích ảnh
Minh Phương/Báo Tin tức