10:16 02/10/2025

Dự án điện hạt nhân Ninh Thuận - Bài cuối

Từ lò phản ứng nghiên cứu Đà Lạt năm 1963, qua những cột mốc chính sách năm 2009, 2016 đến Nghị quyết số 174/2024/QH15 tại Kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XV tái khởi động chương trình, điện hạt nhân Việt Nam là một hành trình kéo dài hơn nửa thế kỷ, nối tiếp nhiều thế hệ nhà khoa học, kỹ sư và nhà quản lý.

Chú thích ảnh
Một góc thôn Vĩnh Trường, xã Phước Dinh (tỉnh Khánh Hòa), nơi đặt Nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận 1, đang được giải phóng mặt bằng. 

Việc xây dựng hai nhà máy điện hạt nhân đầu tiên tại xã Phước Dinh và Vĩnh Hải không chỉ nhằm tạo nguồn điện nền ổn định, mà còn là quyết sách chiến lược để bảo đảm an ninh năng lượng, giảm phát thải khí nhà kính và nâng tầm nội lực công nghệ quốc gia trong giai đoạn mới.

Bài cuối: Nguồn điện nền bảo đảm an ninh năng lượng

Tầm nhìn bền bỉ qua nhiều thập kỷ

Điện hạt nhân tại Việt Nam bắt đầu từ năm 1963, khi lò phản ứng nghiên cứu Đà Lạt TRIGA Mark II công suất 250 kW được đưa vào vận hành. Đây là mốc mở đầu cho đào tạo – nghiên cứu hạt nhân trong nước, đặt nền móng cho một lĩnh vực khoa học công nghệ cao.

Đến năm 1984, sau thời gian ngừng vận hành vì chiến tranh, lò được khôi phục với sự hỗ trợ của Liên Xô (cũ), nâng công suất lên 500 kW. Từ đó, Đà Lạt trở thành “trái tim” của công tác nghiên cứu và đào tạo hạt nhân trong nước, đào tạo hàng trăm kỹ sư và nhà nghiên cứu.

Ngày 25/11/2009, Quốc hội ban hành Nghị quyết 41/2009/QH12, thông qua chủ trương đầu tư Dự án điện hạt nhân Ninh Thuận. Đây là bước ngoặt lịch sử, đưa điện hạt nhân vào chiến lược năng lượng quốc gia, với kế hoạch xây dựng hai nhà máy Ninh Thuận 1 (xã Phước Dinh) và Ninh Thuận 2 (xã Vĩnh Hải), tổng công suất hơn 4.000 MW.

Tuy nhiên, đến ngày 22/11/2016, Quốc hội thông qua Nghị quyết 31/2016/QH14, quyết định tạm dừng dự án do bối cảnh kinh tế, tài chính thay đổi. Dù vậy, Việt Nam không “đóng băng” lĩnh vực này, mà tiếp tục duy trì đào tạo – nghiên cứu, bảo toàn nguồn nhân lực đã tích lũy.

PGS-TS Nguyễn Nhị Điền, Chủ tịch Hội Năng lượng nguyên tử Việt Nam, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu hạt nhân là 1 trong 10 người Việt Nam đầu tiên được Liên Xô đào tạo về công nghệ hạt nhân, hoạt động trong lĩnh vực hạt nhân hơn 40 năm qua cho rằng, do bối cảnh kinh tế và tình hình thế giới mà Việt Nam tạm dừng chương trình điện hạt nhân. Nhưng những hoạt động nghiên cứu và phản ứng hạt nhân vẫn duy trì tại lò phản ứng hạt nhân Đà Lạt, tạo môi trường thực nghiệm. Nhờ đó, Việt Nam vẫn có những bước chuẩn bị lâu dài cho vận hành thương mại sau này.

Cuối năm 2024, sau gần một thập kỷ tạm dừng, Nghị quyết 174/2024/QH15 (30/11/2024) được Quốc hội thông qua, chính thức tái khởi động chương trình điện hạt nhân. Ngày 11/3/2025, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 70/NQ-CP về Chương trình hành động triển khai Nghị quyết 174/2024/QH15 của Quốc hội về chủ trương đầu tư Dự án điện hạt nhân Ninh Thuận. Nghị quyết này xác định rõ một loạt nhiệm vụ trọng tâm cho giai đoạn chuẩn bị; trong đó nhấn mạnh yêu cầu: “Từng bước làm chủ, nắm vững công nghệ hạt nhân, bảo đảm an toàn tuyệt đối, chủ động trong đào tạo nguồn nhân lực và tiếp nhận chuyển giao công nghệ từ đối tác quốc tế”.

Nghị quyết 70/NQ-CP được xem như “bản thiết kế tổng thể” để Chính phủ hiện thực hóa chủ trương của Quốc hội, kết nối các quyết định về nhân lực, công nghệ và giải phóng mặt bằng thành một chương trình thống nhất, xuyên suốt từ trung ương đến địa phương.

Tiếp đó, ngày 26/5/2025, Thủ tướng ban hành Quyết định 1012/QĐ-TTg, phê duyệt Đề án “Đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực phục vụ phát triển điện hạt nhân đến năm 2035”, xác định nhu cầu khoảng 3.900 nhân sự cho hai nhà máy. Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trì, phối hợp với các bộ ngành, EVN, PetroVietnam và 10 trường đại học đào tạo theo đơn đặt hàng.

Các mốc năm 1963 – 1984 – 2009 – 2010 – 2016 – 2024 – 2025 tạo thành một trục thời gian xuyên suốt, thể hiện sự kiên định về tầm nhìn năng lượng xuyên thế hệ lãnh đạo, bất chấp bối cảnh trong nước và quốc tế thay đổi.

Mảnh ghép chiến lược cho an ninh năng lượng

Chú thích ảnh
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Nhị Điền - Chủ tịch Hội Năng lượng nguyên tử Việt Nam, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu hạt nhân- phát biểu về Dự án điện hạt nhân Ninh Thuận. 

Điện hạt nhân là năng lượng điện được tạo ra từ phản ứng hạt nhân. Lợi ích của nó là tạo ra nguồn điện nền ổn định, đảm bảo năng lượng quốc gia. PGS.TS Nguyễn Nhị Điền khẳng định, điện hạt nhân là nguồn điện được tạo ra từ phản ứng phân hạch hạt nhân, có khả năng cung cấp công suất lớn, ổn định và phát thải thấp. Đây cũng là một trong những nguồn điện nền quan trọng, đóng vai trò là nguồn điện nền bảo đảm an ninh năng lượng và giữ ổn định lưới điện quốc gia.

Điện nền (baseload power/baseload electricity) là nguồn điện được sản xuất ổn định, liên tục, đáp ứng nhu cầu tối thiểu không đổi của hệ thống điện trong suốt 24 giờ/ngày, 7 ngày/tuần suốt nhiều năm; không phụ thuộc vào thời tiết hay giờ nắng/gió trong ngày. Điện hạt nhân đặc biệt phù hợp để duy trì sự ổn định của lưới điện quốc gia, đảm bảo cung ứng điện cho các nhu cầu cơ bản: sinh hoạt, công nghiệp, hạ tầng thiết yếu.

Chính vì vậy, Quy hoạch điện VIII quốc gia đã xác định điện hạt nhân là nguồn chiến lược, giúp hệ thống vận hành ổn định, bền vững trong dài hạn, điều kiện không thể thiếu để đạt mục tiêu phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050.

Yếu tố quyết định 

Yếu tố quyết định thành bại của chương trình là nhân lực. Việc Chính phủ khôi phục và duy trì hoạt động Viện Nghiên cứu hạt nhân và lò phản ứng hạt nhân Đà Lạt từ năm 1984 cho thấy tầm nhìn chiến lược và quyết tâm đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia.

PGS.TS Nguyễn Nhị Điền tham gia trực tiếp vào việc khôi phục hoạt động lò phàn ứng năm 1984 và cả giai đoạn 2004–2013 khi nhóm của ông tự chuyển đổi thành công từ nhiên liệu giàu cao sang giàu thấp tại lò Đà Lạt. Và lần đầu tiên trên thế giới, nhiên liệu hạt nhân sau chuyển đổi đã được trả về Nga bằng đường hàng không. Sự kiện tạo nên một bước tiến mới mà sau này nhiều nước khác đã làm theo.

Theo Quyết định 1012/QĐ-TTg, phê duyệt Đề án “Đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực phục vụ phát triển điện hạt nhân đến năm 2035” (gọi là Đề án 1012), được thiết kế ba cấp độ: cơ bản - đại học – sau đại học; thực hành – mô phỏng tại lò phản ứng hạt nhân Đà Lạt và trung tâm huấn luyện; On-the-job training: Tại nhà máy đối tác quốc tế, kèm cấp chứng chỉ vận hành.

Viện Nghiên cứu hạt nhân và Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam sẽ là trung tâm mô phỏng – huấn luyện, phối hợp EVN, PetroVietnam, các trường đại học và mở rộng hợp tác với IAEA, Nga, Nhật, Pháp để cập nhật công nghệ thế hệ III+ và Lò phản ứng mô-đun nhỏ (SMR - Small Modular Reactor).

Theo PGS.TS Nguyễn Nhị Điền, để đào tạo chuyên gia điện hạt nhân thường cần 10 – 20 năm trong môi trường thực nghiệm tốt. Viện Nghiên cứu hạt nhân và Lò phản ứng hạt nhân Đà Lạt sẽ là môi trường thực nghiệm tốt cho các chương trình Đề án 1012. Mỗi trường đại học hay cơ sở đào tạo có thể đào tạo nhân lực ở những phần việc khác nhau. Nhưng để đào tạo phân hạch hạt nhân và cấp quản lý, dù ở phần việc nào, cũng phải qua đào tạo của Viện Nghiên cứu và lò phản ứng hạt nhân. Đó là điều cần thiết bổ sung kiến thức nền về phản ứng hạt nhân, rủi ro và an toàn bức xạ… cho người hoạt động trong lĩnh vực điện hạt nhân.

Đồng thời, PGS.TS Nguyễn Nhị Điền nhấn mạnh, muốn chương trình điện hạt nhân thành công, Việt Nam phải tự chủ nhân lực, kỷ luật, chuẩn mực. Thực hiện như chỉ đạo của Tổng Bí thư Tô Lâm khi triển khai dự án cùng với nhà thầu nước ngoài, đó là đồng thiết kế, đồng chế tạo, đồng vận hành, đồng quản lý… Khi đó mới tham gia vào tất cả các công đoạn và nhanh chóng làm chủ công nghệ.

Hành trình điện hạt nhân Việt Nam là hành trình xuyên thế hệ, từ nghiên cứu đến chính sách, từ giảng đường đến công trường. Khi hai dự án Phước Dinh – Vĩnh Hải bước vào giai đoạn triển khai, đó không chỉ là hai công trình nguồn, mà là bước ngoặt chiến lược, định hình lại cấu trúc điện nền quốc gia cho nhiều thập kỷ tới, giảm phát thải và nâng tầm nội lực công nghệ Việt Nam.

Bài, ảnh: Kha Phạm (TTXVN)