Thực tiễn thành công của Việt Nam đã cung cấp một mô hình lý luận và con đường phát triển mới cho phong trào xã hội chủ nghĩa thế giới, và kinh nghiệm của Việt Nam có ý nghĩa tham khảo chung cho các nước đang phát triển.
Giáo sư, Tiến sĩ Phan Kim Nga, Viện nghiên cứu Chủ nghĩa Marx thuộc Viện Khoa học Xã hội Trung Quốc, chuyên gia về các vấn đề Việt Nam. Ảnh: Quang Hưng/TTXVN
Năm 2025 đánh dấu kỷ niệm 80 năm Cách mạng Tháng Tám thành công và 80 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam). Trong suốt 80 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, Việt Nam đã kiên trì con đường xã hội chủ nghĩa, đạt được những bước phát triển nhảy vọt về kinh tế và xã hội thông qua công cuộc đổi mới mở cửa, trở thành một mô hình thực tiễn độc đáo của Việt Nam cho phong trào xã hội chủ nghĩa thế giới.
Trả lời phỏng vấn của phóng viên TTXVN tại Bắc Kinh, Giáo sư, Tiến sĩ Phan Kim Nga (Pan Jin’e) - thành viên Viện nghiên cứu Chủ nghĩa Marx thuộc Viện Khoa học Xã hội Trung Quốc, chuyên gia về các vấn đề Việt Nam - cho rằng những thành tựu đạt được trong 80 năm qua của Việt Nam được phản ánh trên nhiều phương diện như kinh tế, chính trị, xã hội và văn hóa.
Về thành tựu kinh tế, đây là một thực tiễn thành công trong việc kết hợp chủ nghĩa xã hội với kinh tế thị trường. Kể từ khi Việt Nam thực hiện đổi mới và mở cửa vào năm 1986, Việt Nam đã từng bước thiết lập hệ thống “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” và chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch sang nền kinh tế mở. Năm 2024, Tổng Sản phẩm quốc nội (GDP) của Việt Nam đạt 476,3 tỷ USD, với GDP bình quân đầu người vượt trên 4.700 USD, năng suất lao động tăng lên 9.182 USD/người.
Công tác giảm nghèo và công bằng xã hội của Việt Nam cũng đạt được những thành tựu đáng ghi nhận. Thông qua “Chương trình mục tiêu Quốc gia giảm nghèo bền vững”, Việt Nam đã giảm tỷ lệ nghèo đa chiều từ mức đại đa số người nghèo khi mới thành lập nước xuống còn 1,93%. Ngân hàng Thế giới (WB) đã công nhận Việt Nam là “hình mẫu về giảm nghèo ở các nước đang phát triển”.
Nền kinh tế xanh và phát triển bền vững cũng đang thu hút sự chú ý. Chính phủ Việt Nam đã đưa ra một số biện pháp nhằm nâng tỷ lệ năng lượng tái tạo lên 8% vào năm 2024 và đặt mục tiêu đạt mức trung hòa carbon vào năm 2050. Thành tựu này đã thu hút sự chú ý trên toàn thế giới.
Về chính trị, Việt Nam cũng đạt được những thành tựu rõ rệt. Thứ nhất, về mặt lý luận, lý luận về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã được hình thành. Thông qua việc khám phá lý luận và xây dựng thể chế, Đảng Cộng sản Việt Nam đã kết hợp chủ nghĩa Marx với thực tiễn trong nước, từng bước hình thành nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa “thuộc về nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân”, đạt được sự cân bằng giữa ổn định chính trị và sức sống xã hội. Đây là bước phát triển mang tính đột phá của lý luận Marx về chính quyền nhà nước vô sản.
Thứ hai, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn trong đổi mới chính trị. Từ đổi mới Đảng đến cải cách hệ thống hành chính nhà nước và quản lý xã hội, Việt Nam đã tiến hành cải cách toàn diện. Thông qua việc liên tục tổng kết thực tiễn, hệ thống chính trị dân chủ của Việt Nam đã được hoàn thiện, đạt được sự ổn định xã hội và phát triển đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Thứ ba, Việt Nam đã đạt được sự đại đoàn kết dân tộc và bản sắc văn hóa. Với giá trị cốt lõi “trung với nước, hiếu với dân”, Việt Nam đã xây dựng được sự đồng thuận xã hội, chuyển hóa tư tưởng “trung hiếu” của Nho giáo thành chuẩn mực đạo đức xã hội chủ nghĩa, đồng thời kết hợp với các tôn giáo bản địa, hình thành nên một xã hội đa văn hóa, đạt được hệ sinh thái văn hóa “thống nhất trong đa dạng” và tạo chỗ dựa tinh thần cho sự ổn định xã hội.
Về thành tựu xã hội, Việt Nam kiên trì phương châm “phát triển vì dân” và đã đạt được những tiến bộ đáng kể trong giáo dục, y tế, việc làm…, đồng thời thiết lập hệ thống an sinh xã hội bao phủ toàn dân. Việt Nam đã thực hiện miễn học phí cho học sinh từ mầm non đến hết Trung học phổ thông công lập. Năm 2024, tỷ lệ nhập học tiểu học đúng độ tuổi đạt 99,7%, phấn đấu đến năm 2030 tỷ lệ nhập học đại học tăng lên 35%. Hiện nay, Chính phủ đang triển khai “Chiến lược phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo đến năm 2030”, đặt mục tiêu nâng tỷ lệ sản phẩm công nghiệp công nghệ cao lên 45% và thúc đẩy chuyển đổi lực lượng lao động sang lao động có tay nghề cao. Điều này sẽ tạo động lực mạnh mẽ cho sự phát triển của Việt Nam trong tương lai.
Về hệ thống y tế, tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y tế của Việt Nam đã đạt 93,35%, cơ bản đạt mục tiêu bảo hiểm y tế toàn dân. Tuổi thọ trung bình tăng từ 40 tuổi năm 1945 lên 75,8 tuổi năm 2024, đạt mức của các nước có thu nhập trung bình.
Về việc làm và đô thị hóa, đến năm 2024, lực lượng lao động Việt Nam đạt 51,9 triệu người, trong đó lao động thành thị chiếm 38,3% và tốc độ chuyển dịch lao động nông thôn sang các ngành phi nông nghiệp đang tăng nhanh. Chính phủ đã kiểm soát tỷ lệ thất nghiệp trong thanh niên dưới 4,2% thông qua đào tạo nghề và hỗ trợ khởi nghiệp, thấp hơn mức trung bình của Đông Nam Á.
Những thành tựu này được tạo nên trên nền tảng của hàng thập kỷ chiến đấu chống thực dân và xâm lược đầy gian khổ của Việt Nam. Điều này có nghĩa là lịch sử Việt Nam trong 80 năm qua là một lịch sử đấu tranh anh hùng, một tấm gương sáng cho các nước đang phát triển trong việc thoát khỏi lạc hậu, thực hiện công cuộc trẻ hóa và hiện đại hóa đất nước. Thành công của Việt Nam là nhờ sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam, tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa Việt Nam, sự cần cù, lòng dũng cảm và tinh thần đoàn kết đấu tranh của nhân dân Việt Nam, sự ủng hộ và giúp đỡ của nhân dân yêu chuộng hòa bình, tiến bộ trên thế giới và chủ nghĩa quốc tế vô sản.
Giáo sư Phan Kim Nga khẳng định những thành tựu to lớn và kinh nghiệm quý báu của cách mạng xã hội và xây dựng đất nước Việt Nam trong 80 năm qua sẽ đặt nền móng vật chất vững chắc cho Đảng Cộng sản Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Tổng Bí thư Tô Lâm, mở ra một kỷ nguyên mới cho sự vươn lên của nhân dân Việt Nam, đồng thời tích lũy khối tài sản tinh thần phong phú, là bảo đảm quan trọng để Việt Nam trở thành một nước xã hội chủ nghĩa phát triển vào giữa thế kỷ này, thực hiện ước mơ của Chủ tịch Hồ Chí Minh về “dân tộc Việt Nam có thể sánh vai với các cường quốc năm châu”.
Đánh giá về những thành tựu phát triển của Việt Nam và những đóng góp lý luận và thực tiễn cho phong trào xã hội chủ nghĩa thế giới, nhà nghiên cứu về các vấn đề Việt Nam Phan Kim Nga cho rằng những thành tựu, lý luận và thực tiễn đã đạt được đã cung cấp giải pháp Việt Nam cho phong trào xã hội chủ nghĩa thế giới.
Thực tiễn thành công của Việt Nam đã cung cấp một mô hình lý luận và con đường phát triển mới cho phong trào xã hội chủ nghĩa thế giới, và kinh nghiệm của Việt Nam có ý nghĩa tham khảo chung cho các nước đang phát triển. Việc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam cung cấp một mô hình chủ nghĩa Marx bản địa.
Đảng Cộng sản Việt Nam đã kết hợp chủ nghĩa Marx với tư tưởng Hồ Chí Minh, đề ra khuôn khổ lý luận “kết hợp độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội”. Đại hội XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã tổng kết “Tám nhận thức lý luận” về công cuộc Đổi mới của Việt Nam, phá vỡ những ràng buộc giáo điều của mô hình xã hội chủ nghĩa truyền thống; kiên trì bản chất và phương hướng của chủ nghĩa xã hội, chủ động và sáng tạo hội nhập vào toàn cầu hóa, cung cấp “mô hình Việt Nam” cho các nước đang phát triển đạt được sự phát triển.
Về thực tiễn, Việt Nam mở ra con đường hiện đại hóa cho các nước đang phát triển. Việt Nam đã đạt được kỳ tích “xuất phát điểm thấp, tăng trưởng cao” thông qua “đổi mới và mở cửa”. Theo đánh giá của WB, Việt Nam “đã thúc đẩy cải cách theo định hướng thị trường, đồng thời duy trì ổn định chính trị, làm tham chiếu cho các nước đang chuyển đổi khác”. Sự linh hoạt của Việt Nam trong thu hút đầu tư nước ngoài và phát triển kinh tế tư nhân đã mang đến những ý tưởng mới cho các nước xã hội chủ nghĩa hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu.
Về hợp tác khu vực và quản trị toàn cầu, Việt Nam đã trở thành hình mẫu cho các nước đang phát triển chủ động hội nhập quốc tế và phát triển nhanh chóng. Việt Nam tích cực tham gia các cơ chế hợp tác khu vực như ASEAN, Hiệp định Đối tác Kinh tế toàn diện khu vực (RCEP) và Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), đồng thời thúc đẩy xây dựng hành lang kinh tế “Hai hành lang, một vành đai” cũng như các dự án đường sắt xuyên biên giới Trung Quốc - Việt Nam.
Với tư cách là Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, Việt Nam chủ trương triết lý ngoại giao “hòa bình, hợp tác và phát triển”, đóng vai trò xây dựng trong các lĩnh vực như biến đổi khí hậu và hợp tác Nam-Nam. Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (UNDP) nhận định Việt Nam đã “nâng cao tiếng nói quốc tế của các nước xã hội chủ nghĩa thông qua việc thực hành chủ nghĩa đa phương”. Việt Nam đã đưa tinh thần quốc tế của thời kỳ cách mạng vào thực hành chủ nghĩa đa phương trong thời đại mới.
Giáo sư Phan Kim Nga kết luận những thành tựu của Việt Nam trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội đã khẳng định quan điểm Marx về sự đa dạng của các con đường phát triển. Kinh nghiệm thành công của Việt Nam trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội cho thấy các nước đang phát triển vừa và nhỏ có thể đạt được độc lập dân tộc và phát triển thông qua con đường xã hội chủ nghĩa; các nước xã hội chủ nghĩa có thể đạt được phát triển thông qua cải cách theo định hướng thị trường, mở cửa với thế giới bên ngoài và đổi mới thể chế, đồng thời duy trì ổn định chính trị và công bằng xã hội.
Theo bà, thực tiễn Việt Nam không chỉ thổi luồng sinh khí mới vào phong trào xã hội chủ nghĩa toàn cầu mà còn mở ra “một khả năng khác” cho các nước đang phát triển khám phá con đường hiện đại hóa. Bà khẳng định “chủ nghĩa xã hội không phải là một học thuyết trừu tượng, mà là một thực tiễn sáng tạo, bắt nguồn từ đất nước và đáp ứng nhu cầu của thời đại” chính là đóng góp quý giá nhất của Việt Nam cho phong trào xã hội chủ nghĩa toàn cầu.