12:22 07/12/2011

Đầu tư giảm tổn thất sau thu hoạch: Thực hiện nhiều ưu đãi

Trong những năm qua, Chính phủ đã ban hành nhiều chủ trương nhằm hỗ trợ tín dụng cho các thành phần kinh tế đầu tư xây dựng hệ thống bảo quản nông sản... Và mới đây, Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số 65/2011/QĐ - TTg để bổ sung thêm những ưu đãi cho những dự án đầu tư vào hệ thống này.

kTrong chuỗi sản xuất nông nghiệp, tổn thất sau thu hoạch (TTSTH) được các nhà khoa học, nhà quản lý cũng như doanh nghiệp đánh giá là điểm yếu khó khắc phục. Trong những năm qua, Chính phủ đã ban hành nhiều chủ trương nhằm hỗ trợ tín dụng cho các thành phần kinh tế đầu tư xây dựng hệ thống bảo quản nông sản, cũng như hệ thống máy móc chế biến nhằm giảm tối đa tổn thất sau thu hoạch. Và mới đây, Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số 65/2011/QĐ - TTg để bổ sung thêm những ưu đãi cho những dự án đầu tư vào hệ thống này.

Tỷ lệ tổn thất còn cao

Theo số liệu của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, tổn thất sau thu hoạch đối với lúa gạo của Việt Nam thuộc hàng cao nhất khu vực châu á, dao động trong khoảng 9-17%, thậm chí 20-30%, tùy từng khu vực và mùa vụ. Với tỷ lệ tổn thất này, chúng ta mất khoảng 3.000 tỷ đồng mỗi năm. Còn với rau quả, tổn thất khoảng 25% đối với các loại quả và hơn 30% đối với rau. Trong khi đó, tỷ lệ tổn thất sau thu hoạch ở các nước châu á như Ấn Độ chỉ là 3-3,5%, Bănglađét 7%, Pakixtan 2-10%, Inđônêxia 6-17%, Nêpan 4-22%...

Phơi thóc sau khi thu hoạch vẫn là biện pháp chủ yếu của người nông dân trồng lúa. Ảnh: Trần Tuấn- TTXVN


Cũng theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn thì, sản lượng lúa của Việt Nam đạt khoảng 35, 87 triệu tấn/năm. Tại ĐBSCL, ngoài phần cân đối tiêu dùng nội địa, mỗi năm tạo ra hơn 10 triệu tấn lúa hàng hóa phục vụ xuất khẩu. Con số này có thể sẽ cao hơn nếu tổn thất sau thu hoạch được khắc phục. Bởi chỉ cần giảm 1% tổn thất trên tổng sản lượng lúa cả nước thì nông dân không phải mất hàng ngàn tỷ đồng.

Trong một hội thảo gần đây tổ chức tại ĐBSCL, các nhà khoa học cũng đưa ra con số về tổn thất sau thu hoạch lúa gạo tại đồng bằng sông Cửu Long vào khoảng 13,7%, tương đương thiệt hại 635 triệu USD/năm. Trong số này, chiếm cao nhất là khâu phơi sấy mất 4,2%, thu hoạch 3%, xay xát 3%, bảo quản 2,6%, vận chuyển 0,9%. Bên cạnh đó, tổn thất các phụ phẩm khác của lúa gạo vào khoảng 50%…

Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tỷ lệ tổn thất sau thu hoạch còn cao, trong đó phải kể đến một số nguyên nhân cơ bản như: Hiện nay mặc dù nhiều địa phương đã thực hiện dồn điền đổi thửa nhưng trên thực tế, quy mô đồng ruộng nước ta vẫn nhỏ, phân tán, manh mún. Bình quân mỗi hộ chỉ có 0,7ha đất canh tác với 7-8 thửa. Hệ thống kênh mương chỉ phát huy 60-70% công suất thiết kế... Cơ giới hóa nông nghiệp tập trung chủ yếu ở khâu làm đất; khâu chế biến, bảo quản, hệ thống kho dự trữ lương thực còn thiếu. Vì thế, thu nhập của nông dân giảm 15-30% do sản phẩm không được sơ chế, bảo quản, tiêu thụ kịp thời.

Nông dân nước ta phần lớn tự thu hoạch, bảo quản bằng một số chế phẩm hóa học nên chất lượng, mẫu mã giảm. Đơn cử như công nghệ sấy thóc gạo của ta chưa phát triển, thóc thường phơi trên các sân bê tông hay đường nhựa nên độ rạn, gãy cao (30%); tỷ lệ sạn, cát vượt quá tiêu chuẩn cho phép. Theo thống kê của Viện Kinh tế nông nghiệp, hầu hết công nghệ của các doanh nghiệp (DN) chế biến nông - lâm sản đã qua 3 - 4 thế hệ; 73% số nhà xưởng tạm bợ, chắp vá; chỉ 1- 5% sản phẩm làm ra đạt chất lượng quốc tế.

Ngoài ra, các cơ sở chế biến nông, lâm, thủy sản lại chưa được quan tâm đầu tư đổi mới công nghệ nên chưa đáp ứng được yêu cầu bảo quản sản phẩm sau thu hoạch. Mặc dù thời gian qua, các cơ quan chức năng của Bộ NN&PTNT đã chủ động hướng dẫn, chuyển giao một số công nghệ mới cho các cơ sở chế biến nhưng hầu hết cơ sở vật chất phục vụ sơ chế, bảo quản, chế biến nông sản thực phẩm thiết bị và công nghệ còn lạc hậu, nên giá thành sản xuất cao, chất lượng không bảo đảm. Đơn cử như tại các vùng trồng xoài lớn ở ĐBSCL (Tiền Giang, Trà Vinh, Đồng Tháp, Cần Thơ...), hầu hết các địa phương chưa chú trọng việc hình thành vùng chuyên canh. Mạnh nhà nào nhà nấy trồng, nên mặc dù ĐBSCL có tới 41.000ha xoài, chiếm 50% diện tích xoài của cả nước nhưng vẫn rất manh mún. Chính vì vậy, khi đối tác cần mua với số lượng lớn, mỗi gia đình không thể tự đáp ứng mà phải gom hàng ở nhiều nơi. Đây chính là nguyên nhân khiến chất lượng sản phẩm không đồng đều, kéo theo sự tụt giá của cả lô hàng, không chỉ gây bất lợi cho DN mà còn khiến người trồng mất đi cơ hội liên kết làm ăn lớn.

Thực hiện nhiều ưu đãi cho các dự án đầu tư

Nhận thức được vấn đề này, trong nhiều năm qua, Chính phủ đã chỉ đạo các cơ quan chức năng thực hiện nhiều biện pháp kịp thời như khuyến khích đầu tư vào các dự án nâng cao giá trị thu hồi sản phẩm hàng hóa sau thu hoạch, cho vay tín dụng ưu đãi… Và, mới đây, Thủ tướng Chính phủ đã ra Quyết định 65/2011/QĐ-TTg nhằm sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 63/2010/QĐ-TTg về chính sách hỗ trợ nhằm giảm tổn thất sau thu hoạch đối với nông sản, thủy sản.

Theo đó, ngoài các dự án đầu tư xây dựng kho dự trữ 4 triệu tấn lúa, ngô, kho lạnh bảo quản thủy sản, rau quả và kho tạm trữ cà phê đã được quy định tại Quyết định 63/2010/QĐ-TTg thì các dự án đầu tư chế tạo máy móc, thiết bị nông nghiệp nhằm giảm tổn thất sau thu hoạch cũng sẽ được áp dụng lãi suất tín dụng đầu tư phát triển. DN mới thành lập để thực hiện dự án đầu tư xây dựng kho dự trữ 4 triệu tấn lúa, kho lạnh bảo quản rau quả, thủy sản, kho tạm trữ cà phê theo quy hoạch, tại địa bàn có điều kiện kinh tế, xã hội khó khăn (theo danh mục địa bàn ưu đãi thuế thu nhập DN ban hành kèm theo Nghị định số 124/2008/NĐ-CP) được áp dụng mức thuế suất 20% trong 10 năm, miễn thuế thu nhập DN trong 2 năm và giảm 50% số thuế thu nhập DN phải nộp trong 4 năm tiếp theo. Đối với dự án thực hiện tại địa bàn có điều kiện kinh tế, xã hội đặc biệt khó khăn thì được áp dụng mức thuế suất 10% trong 15 năm, miễn thuế thu nhập DN trong 4 năm và giảm 50% số thuế thu nhập DN phải nộp trong 9 năm tiếp theo. (Theo Quyết định 63/2010/QĐ-TTg thì các tổ chức, cá nhân thuộc các thành phần kinh tế đầu tư các dự án xây dựng kho dự trữ 4 triệu tấn lúa, kho lạnh bảo quản rau quả, thủy sản, kho tạm trữ cà phê theo quy hoạch được miễn thuế thu nhập DN trong 3 năm đầu đi vào hoạt động và giảm 50% trong 2 năm tiếp theo).

Quyết định 65/2011/QĐ-TTg cũng quy định, Bộ NN &PTNT có trách nhiệm công bố danh mục máy móc, thiết bị nhằm giảm tổn thất sau thu hoạch có tỷ lệ giá trị sản xuất trong nước trên 60% và các cơ sở sản xuất các loại máy móc, thiết bị thuộc danh mục nêu trên, làm cơ sở để các ngân hàng thực hiện cho vay. Về đơn vị thực hiện việc cho vay vốn (có hỗ trợ lãi suất) đối với các khoản vay dài hạn, trung hạn bằng đồng Việt Nam của tổ chức, cá nhân để mua máy móc, thiết bị sản xuất trong nước nhằm giảm tổn thất sau thu hoạch sẽ giao cho Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam (Agribank) và các ngân hàng thương mại nhà nước thực hiện. Trong nhiều năm qua, với vai trò được giao, Agribank đã đóng vai trò chủ lực đối với thị trường tài chính nông thôn trong việc cho vay hỗ trợ giảm tổn thất sau thu hoạch đối với nông sản, thủy sản nhằm tích cực hỗ trợ người nông dân và DN trong cả nước

Dùng cơ giới hóa trong thu hoạch để giảm tổn thất đã được nhiều địa phương ĐBSCL áp dụng.Ảnh: Duy Khương – TTXVN


Theo quy định, đối tượng được vay hỗ trợ lãi suất nhằm giảm tổn thất sau thu hoạch là các tổ chức, cá nhân hoạt động hợp pháp tại Việt Nam, gồm: Hợp tác xã, tổ hợp tác, hộ gia đình, cá nhân có địa chỉ cư trú hợp pháp và được UBND cấp xã xác nhận trực tiếp sản xuất và phục vụ sản xuất; các DN có ký và thực hiện hợp đồng tiêu thụ nông sản, dịch vụ cơ giới hóa sản xuất nông nghiệp với nông dân. Các đối tượng này sẽ được hỗ trợ về lãi suất đối với các khoản vay dài hạn tại Agribank. Mức cho vay tối đa để mua máy móc, thiết bị sản xuất trong nước lên tới 100% giá trị hàng hóa. Khoản vay được hỗ trợ 100% lãi suất vay trong 2 năm đầu và từ năm thứ 3 trở đi được hỗ trợ 50% lãi suất vay. Ngoài ra, cho vay áp dụng lãi suất tín dụng đầu tư phát triển còn được áp dụng đối với các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân vay vốn để mua máy móc, thiết bị giảm tổn thất sau thu hoạch gồm thiết bị xay xát gạo có tỷ lệ thu hồi gạo nguyên cao (đến 70%); máy móc, thiết bị chế biến ướt cà phê, các thiết bị xử lý nâng cao phẩm cấp cà phê và các công trình xử lý nước thải kèm theo; máy tách vỏ cứng và xát vỏ lụa nhân điều; dây chuyền chế biến hồ tiêu chất lượng cao; thiết bị lọc màng bán thấm, chiếu xạ, tiệt trùng bằng hơi nước nóng đối với rau quả tươi, hệ thống sơ chế rau quả tại chợ đầu mối; Các DN đầu tư xây dựng kho dự trữ 4 triệu tấn lúa, ngô, kho lạnh bảo quản thủy sản (bao gồm cả kho lạnh trên tàu đánh bắt thủy sản), rau quả và kho tạm trữ cà phê. Theo thống kê, tính đến cuối tháng 5/2011, tổng dư nợ cho vay nền kinh tế của Agribank đạt 414.573 tỷ đồng, trong đó dư nợ cho vay nông nghiệp, nông thôn chiếm trên 70%.

Tuy nhiên, để Quyết định 65/2011/QĐ - TTg của Thủ tướng Chính phủ về chính sách giảm tổn thất sau thu hoạch đi vào thực thi có hiệu quả, giải quyết những kỳ vọng lớn lao của nông dân và DN, vấn đề quan trọng mà theo ông Vũ Văn Dũng - Vụ trưởng Vụ nuôi trồng thủy sản Bộ NN& PTNT cho biết: Phải phát huy tối đa tính chủ động trong ngành. Cụ thể, là phải triển khai đồng bộ các giải pháp về quy hoạch vùng nguyên liệu, đầu tư công nghệ, máy móc thiết bị từ khâu thu hoạch đến bảo quản. Trước mắt, cần xây dựng hệ thống kho dự trữ hiện đại, bảo đảm tiêu chuẩn quốc tế để có chất lượng nông sản tốt nhất, giảm tổn thất sau thu hoạch. Ngoài ra, nếu nông dân và nhà chế biến có điều kiện lựa chọn các tiến bộ về quản lý và công nghệ sau thu hoạch như: Máy gặt, máy sấy lúa, hệ thống tồn trữ kín, kỹ thuật xay xát cải tiến và từ những thông tin cập nhật về thị trường thì những thất thoát có thể giảm đáng kể và thu nhập từ lúa sẽ gia tăng.

Thành Hiển