Kho tư liệu hình ảnh động đồ sộ của điện ảnh Việt Nam với hàng vạn mét phim, hàng chục nghìn cuốn phim quý hiếm đang đứng trước yêu cầu phải “sống lại” thông qua các mô hình khai thác thương mại. Tuy nhiên, để kho báu này thực sự trở thành tài sản văn hóa kinh tế, cần những thay đổi mạnh mẽ về tư duy cùng khung pháp lý hoàn chỉnh.
Đây là vấn đề trọng tâm được đặt ra tại hội thảo “Phát huy giá trị tư liệu hình ảnh động lưu trữ trong tình hình hiện nay”, do Viện Phim Việt Nam tổ chức sáng 25/11 tại TP Hồ Chí minh. Sự kiện nằm trong chuỗi các hoạt động của Liên hoan Phim Việt Nam lần thứ 24.
Bà Lê Thị Hà, Viện trưởng Viện Phim Việt Nam nêu vấn đề căn cốt, nếu đưa phim lưu trữ lên nền tảng số và thu phí thì “ai được thu”, “thu như thế nào”, “bản quyền được xử lý ra sao”. Hiện vẫn chưa có cơ chế rõ ràng nên các đơn vị còn lúng túng trong triển khai.
Bà Lê Thị Hà, Viện trưởng Viện Phim Việt Nam phát biểu tại chương trình.
TS Ngô Đặng Trà My, Phó Viện trưởng Viện Phim Việt Nam cho biết, Viện đang lưu giữ gần 20.000 tên phim, hơn 80.000 cuốn phim 35mm, 16mm, cùng hàng chục nghìn băng video, hồ sơ phim truyện, phim tài liệu, phim hoạt hình và tài liệu nhân vật điện ảnh.
Trong đó, có khối di sản điện ảnh cách mạng kinh điển như “Chung một dòng sông”, “Con chim vành khuyên”, “Vợ chồng A Phủ”, “Cánh đồng hoang”, “Bao giờ cho đến tháng Mười”, cùng nhiều tư liệu quý gắn với hoạt động cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Dù vậy, theo TS Trà My, lượng tác phẩm được giới thiệu đến công chúng còn rất ít. Các hoạt động như tuần phim chuyên đề, giao lưu giới thiệu phim… chưa tạo được sức hút, số lượng khán giả có xu hướng giảm. Việc phổ biến phim lưu trữ trên không gian mạng mới dừng ở mức thử nghiệm.
“Chúng ta chưa có lịch trình hoạt động cố định để hình thành thói quen thưởng thức phim lưu trữ. Nội dung nhiều chương trình vẫn thiếu sinh động”, TS Trà My nói.
Từ thực tiễn quảng bá, TS Ngô Phương Lan, Chủ tịch Hiệp hội Xúc tiến Phát triển Điện ảnh Việt Nam cho rằng, kho phim lưu trữ cần được “tái sinh” bằng tư duy sáng tạo mới. Bà dẫn ví dụ tuần lễ điện ảnh “Vietnam Cinéma - Itinéraire de Lumière” sắp diễn ra tại Paris (5 - 12/12) với những bộ phim Việt được giới thiệu tới khán giả và chuyên gia quốc tế.
Khung cảnh hội thảo khoa học sáng 25/11.
Theo TS Ngô Phương Lan, sức hút của các bộ phim như “Mưa đỏ” cho thấy tiềm năng hồi sinh dòng phim lịch sử, hậu chiến, đổi mới. Từ nền tảng đó, có thể phát triển các sản phẩm sáng tạo như phim ứng dụng thực tế ảo (VR), thực tế tăng cường (AR).
“Di sản điện ảnh cần được tích hợp với du lịch điện ảnh, tour đến bối cảnh phim, hay các hoạt động giáo dục văn hóa lịch sử. Cần phát triển thị trường và mô hình kinh doanh tôn vinh di sản, đồng thời đào tạo đội ngũ nhân lực phù hợp”, bà Phương Lan nhấn mạnh.
Còn theo luật sư Lê Quang Vinh, muốn thương mại hóa phim di sản, trước tiên phải tháo gỡ rào cản tư duy. “Thay vì chỉ lưu trữ trong kho, không tạo nguồn thu và lãng phí tài sản công, chúng ta cần chuyển sang khai thác động, số hóa, phục chế và đưa tác phẩm trở lại với công chúng, đặc biệt là thế hệ trẻ”, luật sư Vinh nói.
Ông Phạm Cao Thái, Vụ trưởng Vụ Pháp chế (Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch) cung cấp nhiều thông tin về vấn đề bản quyền và khai thác thương mại.
Ông Vinh cũng đề xuất mô hình “lấy phim nuôi phim”, bằng cách cấp phép bản quyền đơn lẻ theo thời hạn 2 - 3 năm hoặc cấp phép theo gói, ví dụ 10 phim với mức giá hợp lý; thử nghiệm theo giai đoạn từ 50 phim đến 300 phim; nguồn thu tái đầu tư cho số hóa - phục chế, giảm gánh nặng ngân sách.
Theo ông Vinh, nếu làm tốt, kho lưu trữ hoàn toàn có thể trở thành “ngân hàng nội dung” sinh lời, tương tự mô hình các hãng phim quốc tế đang áp dụng.
Đại diện cơ quan quản lý, ông Phạm Cao Thái, Vụ trưởng Vụ Pháp chế (Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch) cho biết phim lưu trữ, đặc biệt là phim do Nhà nước đặt hàng phải tuân thủ các văn bản quy phạm về quản lý tài sản công, sử dụng ngân sách và quyền sở hữu trí tuệ.
Công chúng, khán giả trẻ và sinh viên các trường đại học quan tâm đến các thông tin được cung cấp tại hội thảo.
Hiện Bộ đang xây dựng khuôn khổ pháp lý để giải quyết vấn đề bản quyền, khai thác thương mại hợp pháp và tạo điều kiện cho các đơn vị chủ động hơn. “Cơ chế pháp lý phải đủ chặt chẽ để bảo đảm quyền sở hữu nhà nước, nhưng cũng phải tạo không gian linh hoạt cho các mô hình khai thác mới”, ông Thái nhận định.
Từ các ý kiến tại hội thảo, bài toán thương mại hóa phim lưu trữ không chỉ là câu chuyện kỹ thuật số hóa mà là tư duy khai thác di sản điện ảnh một cách sống động, gắn với sáng tạo nội dung, du lịch, giáo dục và thị trường văn hóa.
Di sản phim Việt không chỉ có giá trị lịch sử mà còn là nguồn lực văn hóa - kinh tế lớn nếu được khai thác đúng cách, với khung pháp lý rõ ràng và chiến lược dài hạn.