Trong bối cảnh kinh tế - thương mại thế giới nhiều biến động hiện nay, việc đa dạng hóa nguồn cung nguyên liệu nhập khẩu phục vụ sản xuất trong nước đóng vai trò quan trọng để đảm bảo tăng trưởng cân đối và bền vững hơn của xuất nhập khẩu.
Công nhân hoàn thiện những công đoạn cuối cùng trước khi đóng gói sản phẩm tại Công ty giày Viễn Thịnh - KCN Long Hậu, tỉnh Tây Ninh. Ảnh: Thành Phương/TTXVN
Theo Cục Công nghiệp (Bộ Công Thương), nhựa là một trong những ngành công nghiệp có tăng trưởng cao nhưng vẫn chỉ được biết đến như ngành kinh tế kỹ thuật về gia công chất dẻo. Đặc biệt, ngành nhựa vẫn chưa tự chủ được nguồn nguyên liệu đầu vào. Cụ thể, 70% nguyên liệu và phụ liệu đầu vào phải nhập khẩu do nguồn cung trong nước hiện nay chỉ có thể đáp ứng khoảng 1 triệu tấn. Đặc biệt, thiếu nguồn cung nguyên liệu nhựa tái sinh và công nghiệp hỗ trợ ngành nhựa chưa phát triển. Doanh nghiệp không tự chủ được nguyên liệu đầu vào; chi phí cho nguyên liệu chiếm tỷ trọng cao nhất trong cơ cấu chi phí của ngành dẫn đến việc doanh nghiệp nhựa phải duy trì tồn kho nguyên liệu lớn để đảm bảo hoạt động sản xuất, kinh doanh không bị gián đoạn.
Báo cáo của Hiệp hội Nhựa Việt Nam (VPA) cho thấy, năm 2024 ngành nhựa Việt Nam nhập khẩu 8,5 triệu tấn hạt nhựa nguyên sinh và tái chế, lượng nhựa phế liệu nhập khẩu làm nguyên liệu sản xuất đạt trung bình 0,5 triệu tấn/năm. Các mặt hàng nhựa PP có kim ngạch nhập khẩu đạt 1,5 tỷ USD, nhập khẩu các mặt hàng nhựa PE đạt 2 tỷ USD. Riêng quý I/2025, cả nước đã nhập khẩu 2,28 triệu tấn chất dẻo nguyên liệu (hay còn gọi là nhựa hoặc polymer) với trị giá 3,02 tỷ USD, tăng 25,2% về lượng và tăng 20,8% về kim ngạch so với cùng kỳ năm 2024.
Đáng lưu ý, ngành nhựa Việt Nam đang phụ thuộc đến 70% từ nguồn nguyên liệu ngoại nhập từ các quốc gia trên thế giới như: Hàn Quốc, Thái Lan, Nhật Bản, Hoa Kỳ, Trung Quốc, Malaysia, Singapore… Trong số đó, Trung Quốc tiếp tục là thị trường lớn nhất cung cấp nguyên liệu nhựa cho Việt Nam, chiếm 29,2% thị phần.
Tương tự, ngành hoá chất vẫn phải nhập muối công nghiệp chủ yếu vì sản lượng và chất lượng muối sản xuất trong nước chưa đáp ứng được nhu cầu của ngành công nghiệp, nhất là công nghiệp hóa chất. Muối công nghiệp đòi hỏi độ tinh khiết cao, hàm lượng Natri clorua (NaCl) đạt 98% trở lên và hàm lượng các tạp chất thấp. Trong khi đó, sản xuất muối truyền thống ở Việt Nam chủ yếu thủ công, năng suất thấp, chất lượng chưa đáp ứng yêu cầu của các ngành công nghiệp.
Đại diện một công ty sản xuất hóa chất chia sẻ, muối trong nước chủ yếu là muối ăn, trong khi doanh nghiệp nhập muối công nghiệp được tinh chế từ muối thô để làm nguyên liệu chính sản xuất hóa chất cơ bản như xút, soda… phục vụ ngành y tế, công nghiệp hóa chất. Ngành muối trong nước sản xuất thủ công, chất lượng thấp nên cung cấp không đủ nhu cầu muối công nghiệp cho doanh nghiệp hóa chất.
Thực tế câu chuyện về thiếu nguồn nguyên liệu đối với những ngành hàng sản xuất chủ lực cho thấy việc tự chủ nguyên liệu sản xuất trong nước vẫn còn nhiều thách thức ở phía trước. Theo bà Nguyễn Thị Thanh Xuân - Phó Chủ tịch, Tổng Thư ký Hiệp hội Da giày - Túi xách Việt Nam, đối với ngành da giày, nút thắt lớn nhất hiện nay chính là vấn đề nguyên phụ liệu. Nguồn cung nguyên phụ liệu trong nước hiện vẫn phụ thuộc vào nhập khẩu và sự chỉ định của khách hàng bởi phần lớn doanh nghiệp đang hoạt động theo mô hình gia công.
Để tháo gỡ điểm nghẽn này, Hiệp hội xác định cần tiến tới tự chủ sản xuất nguyên phụ liệu trong nước. Khi đó, Việt Nam không chỉ tăng tính chủ động mà còn có khả năng thu hút thêm nhiều đơn hàng, tạo đà phát triển bền vững cho ngành.
Cũng theo bà Phan Thị Thanh Xuân, Hiệp hội Da giày-Túi xách Việt Nam, Hiệp hội Dệt may Việt Nam, Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam đã thống nhất đề xuất xây dựng một trung tâm đa chức năng, vừa là nơi nghiên cứu - phát triển, đổi mới sáng tạo, vừa là đầu mối giao dịch nguyên phụ liệu phục vụ toàn ngành thời trang.
Hiện tại, dự án đã xác định được địa điểm triển khai với quỹ đất ban đầu khoảng 40 ha. Tuy nhiên, để sáng kiến này thực sự trở thành động lực cho ngành đòi hỏi chính sách mang tính đột phá và sự đồng hành sát sao từ phía Nhà nước trong giai đoạn đầu. Đặc biệt, dù mô hình trung tâm nguyên phụ liệu hiện còn khá mới mẻ tại Việt Nam nhưng đã được nhiều quốc gia triển khai thành công.
Nhằm cụ thể hóa định hướng này, Bộ trưởng Bộ Công Thương đã giao Cục Xuất nhập khẩu, Cục Xúc tiến thương mại, Cục Công nghiệp, Vụ Phát triển thị trường nước ngoài và Vụ Chính sách thương mại đa biên nghiên cứu, xây dựng Đề án “Đa dạng hóa nguồn cung nguyên liệu nhập khẩu phục vụ sản xuất trong nước”.
Ông Nguyễn Anh Sơn, Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương) cho biết, việc xây dựng Đề án Đa dạng hóa nguồn cung nguyên liệu nhập khẩu là một trong những nhiệm vụ trọng tâm mà Bộ Công Thương giao Cục Xuất nhập khẩu. Vì vậy, Cục Xuất nhập khẩu đã phối hợp với các hiệp hội ngành hàng và cộng đồng doanh nghiệp xây dựng nội dung Đề án và chính sách hỗ trợ liên quan.
Tại hội nghị lấy ý kiến góp ý cho đề án này được Cục Xuất nhập khẩu tổ chức mới đây, các đại biểu thống nhất nhận định về việc hoạt động sản xuất nhiều ngành còn phụ thuộc lớn vào nguồn cung nhập khẩu từ một hoặc một số thị trường do nguồn cung trong nước chưa đáp ứng yêu cầu. Cùng đó, đánh giá cao tính cần thiết và hy vọng Đề án sẽ đưa ra khuyến nghị thiết thực, giải pháp không chỉ cho Bộ Công Thương mà còn cả các bộ, ngành khác liên quan.
Đối với Đề án, đại diện các ngành hàng cũng đã có ý kiến về việc đề nghị đơn vị soạn thảo xem xét bổ sung thêm ngành sản phẩm cơ khí, các mặt hàng kim loại. Các Hiệp hội cho biết sẽ tiếp tục đồng hành với Cục Xuất nhập khẩu trong việc xây dựng Đề án thông qua cung cấp thông tin, số liệu tổng hợp từ hội viên cũng như đưa ra nhận định và khuyến nghị. Tuy nhiên, bên cạnh việc đa dạng hóa nguồn cung nguyên liệu nhập khẩu, nhiều ý kiến cho rằng doanh nghiệp nên mở rộng thị trường xuất khẩu nhằm giúp tiếp cận thị trường mới và giảm thiểu rủi ro.
Ông Tạ Hoàng Linh - Vụ trưởng Vụ Phát triển thị trường nước ngoài (Bộ Công Thương) khẳng định, tới đây Bộ Công Thương tập trung vào việc khai thác hiệu quả 17 hiệp định thương mại tự do (FTA)/thỏa thuận thương mại đã ký kết để thúc đẩy tăng trưởng. Ngoài ra, Bộ Công Thương cũng tranh thủ tối đa cơ hội, xu hướng phục hồi của các thị trường để đẩy mạnh xuất khẩu, xử lý hiệu quả khó khăn, vướng mắc, xung đột trong quan hệ kinh tế thương mại. Điều này góp phần ổn định, mở rộng thị trường xuất khẩu và thu hút đầu tư nước ngoài; đồng thời hỗ trợ doanh nghiệp mở rộng, đa dạng hóa nguồn cung nguyên liệu đầu vào phục vụ sản xuất hàng xuất khẩu, hạn chế phụ thuộc vào một thị trường nguyên liệu nhập khẩu.
Bên cạnh đó, Bộ Công Thương tiếp tục theo dõi sát việc triển khai, áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại của các nước với sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam để chủ động ứng phó từ sớm, từ xa; đẩy mạnh mở rộng và đa dạng hóa thị trường xuất khẩu thông qua việc nghiên cứu thị trường mới, tiềm năng, còn dư địa khai thác tại Trung Đông, châu Phi, châu Mỹ Latinh... để mở rộng thị trường.
Mặt khác, thúc đẩy đàm phán FTA (tại châu Âu là FTA với khối Hiệp hội Thương mại tự do châu Âu - EFTA; châu Mỹ là FTA với khối Mercosur; châu Á là FTA với các nước Hội đồng hợp tác vùng Vịnh - GCC, Ấn Độ, Pakistan; châu Phi là FTA với Ai Cập, Liên minh Thuế quan Nam châu Phi - SACU). Đặc biệt, Bộ Công Thương cũng chú trọng đàm phán, ký kết thỏa thuận, hiệp định hợp tác trong lĩnh vực kinh tế, thương mại, công nghiệp, nhất là lĩnh vực Việt Nam có thế mạnh.
Ngoài ra, Bộ sẽ triển khai có hiệu quả về phòng vệ thương mại, phòng, chống gian lận xuất xứ và chuyển tải bất hợp pháp. Thúc đẩy hợp tác quốc tế trong lĩnh vực mới như chuyển đổi năng lượng, chuyển đổi số, kinh tế tuần hoàn, chuyển giao công nghệ, ứng dụng thành tựu khoa học, đổi mới sáng tạo để xây dựng phát triển ngành công nghiệp mang tính nền tảng. Đặc biệt, tập trung kết nối, tạo liên minh chiến lược giữa các ngành sản xuất Việt Nam với chuỗi sản xuất, cung ứng toàn cầu. Qua đó giúp doanh nghiệp dần nâng cao năng lực cạnh tranh, duy trì và phát triển vị thế của mình trong chuỗi giá trị toàn cầu.