08:17 26/08/2021

Đã cấp hạn mức tín dụng 56.000 tỷ đồng cho việc thu mua, tạm trữ lúa gạo

Theo thông tin Ngân hàng Nhà nước (NHNN) chiều 26/8, từ đầu năm 2021 tới nay, các tổ chức tín dụng (TCTD) tại Đồng bằng sông cửu Long (ĐBSCL) đã cấp hạn mức tín dụng khoảng 56.000 tỷ đồng cho các doanh nghiệp, thương nhân thu mua, tạm trữ lúa gạo.

Chú thích ảnh
Xuất khẩu gạo đang rất khó khăn vì dịch COVID-19 bùng phát. Ảnh: TTXVN.

Để tạo điều kiện cho khách hàng tiếp cận vốn, NHNN đã quy định trần lãi suất cho vay ngắn hạn bằng VND đối với các lĩnh vực ưu tiên (trong đó có nông nghiệp, nông thôn, bao gồm ngành lúa gạo) thấp hơn so với lãi suất cho vay các lĩnh vực thông thường khác với lãi suất hiện là 4,5%/năm.

NHNN tiếp tục cho doanh nghiệp được vay ngoại tệ để thanh toán tiền nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ, thực hiện phương án sản xuất, kinh doanh hàng hóa xuất khẩu qua cửa khẩu biên giới Việt Nam khi khách hàng vay có đủ ngoại tệ từ nguồn thu sản xuất, kinh doanh để trả nợ vay; bỏ quy định về giới hạn thời gian cho vay đối với nhu cầu vốn cho vay ngắn hạn để đáp ứng các nhu cầu vốn trong nước. 

Để tháo gỡ khó khăn cho người sản xuất, kinh doanh lúa gạo do giá giảm mạnh trong vụ đông xuân vừa qua, NHNN đã chỉ đạo các TCTD ưu tiên tập trung bố trí đủ vốn cho vay hỗ trợ doanh nghiệp có thêm nguồn vốn thu mua tạm trữ lúa, gạo; thực hiện nghiêm trần lãi suất cho vay ưu đãi ngắn hạn bằng VNĐ đối với nông nghiệp, nông thôn; xem xét giảm lãi suất cho vay hỗ trợ cho các doanh nghiệp thu mua tạm trữ lúa, gạo.

Ngoài ra, các TCTD đã kịp thời thực hiện các giải pháp theo thẩm quyền và khả năng tài chính để hỗ trợ cho một số doanh nghiệp xuất khẩu lúa gạo gặp khó khăn trong quan hệ tín dụng như: Cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn giảm lãi vay, tăng hạn mức tín dụng, tăng cường cho vay không có tài sản bảo đảm trên cơ sở đánh giá khả năng tài chính và tín nhiệm của khách hàng.

Tính đến cuối tháng 7/2021, dư nợ ngành lúa gạo đạt 144.657 tỷ đồng, tăng 11,33% so với cuối năm 2020. Trong đó, dư nợ trồng, sản xuất lúa đạt 34.819 tỷ, chiếm 24,07%; dư nợ phục vụ thu mua, tiêu thụ lúa gạo đạt 97.402 tỷ đồng, chiếm 67,33%, tăng 15,77% so với 2020; dư nợ chế biến, bảo quản lúa gạo đạt 12.435 tỷ đồng, chiếm 8,6%. 

Tại ĐBSCL, đến cuối tháng 7/2021, dư nợ ngành lúa gạo tại ĐBSCL đạt 74.139 tỷ đồng, tăng 15,45%, chiếm 51,25% dư nợ lúa gạo toàn quốc. Từ đầu năm 2021 tới nay, các TCTD tại ĐBSCL đã giải ngân với tổng doanh số lũy kế 93.000 tỷ đồng để thu mua gần 7,3 triệu tấn gạo. Dư nợ thu mua, tiêu thụ đến cuối tháng 8/2021 ước đạt 51.500 tỷ đồng, tăng 22% so với năm 2020, chiếm 92% hạn mức được cấp. 

Theo Phó Thống đốc NHNN Đào Minh Tú, thời gian tới ngành ngân hàng tiếp tục tập trung nguồn vốn để đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn của thương nhân kinh doanh, đầu tư, chế biến thóc, gạo, người sản xuất lúa với thời hạn và lãi suất hợp lý; mở rộng, tăng hạn mức tín dụng cho các doanh nghiệp để đảm bảo đủ nguồn vốn thu mua, tạm trữ thóc, gạo cho người nông dân trong vụ Hè Thu, tới đây là vụ Thu Đông nhằm góp phần ổn định giá thóc gạo, đảm bảo lợi nhuận cho người trồng lúa.

"Thực hiện nghiêm túc quy định về trần lãi suất cho vay ngắn hạn bằng VNĐ đối với lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, trong đó có ngành lúa gạo; tiết giảm mọi chi phí hoạt động không cần thiết để dành nguồn lực giảm lãi suất vay; thực hiện cam kết đồng thuận giảm lãi suất cho vay lên tới 1%/năm trong các tháng cuối năm như kế hoạch; linh hoạt áp dụng các hình thức bảo đảm tiền vay, xem xét cho vay không có tài sản bảo đảm trên cơ sở quản lý dòng tiền; rút ngắn thời gian xét duyệt cho vay, đa dạng hóa các loại sản phẩm tín dụng để tạo thuận lợi cho khách hàng tiếp cận vốn”, Phó Thống đốc NHNN Đào Minh Tú cho biết.

Theo NHNN, do nhiều tỉnh đang áp dụng giãn cách xã hội theo Chỉ thị 16/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ, các doanh nghiệp ngành lúa gạo gặp khó khăn trong việc thu hoạch, lưu thông, sản xuất - chế biến và xuất khẩu gạo. Theo đó, các thương lái và phương tiện gặt đập liên hợp ngoài tỉnh bị hạn chế vào địa bàn, trong khi vụ lúa Hè Thu đã và đang vào thu hoạch, người dân tạm dừng hoặc không mạnh dạn đầu tư vào sản xuất, trồng trọt. Các hộ nông dân thu hoạch nhưng không tiêu thụ được do không tiếp xúc được với thương lái mua; thiếu hụt nghiêm trọng tài xế xe tải, container, tài công ghe, sà lan vận chuyển gạo, lúa. 

Các địa phương áp dụng thời gian hiệu lực của xét nghiệm COVID-19 khác nhau, gây khó khăn cho các phương tiện vận chuyển. Ví như cùng tại 4 tỉnh Đồng Tháp, An Giang, Kiên Giang và Cần Thơ, diễn biến dịch tương tự như nhau nhưng Đồng Tháp, Kiên Giang và Cần Thơ cho phép thời gian hiệu lực của xét nghiệm COVID-19 trong 72 giờ trong khi An Giang là 24 giờ.

Các khách hàng là doanh nghiệp đang tổ chức sản xuất theo mô hình “3 tại chỗ” khiến năng suất hoạt động bị giảm do thiếu hụt nguồn công nhân, ảnh hưởng đến tiến độ giao hàng. Một số nhà máy của doanh nghiệp phải tạm ngừng hoạt động do nằm trong vùng dịch; xuất khẩu gạo đang rất khó khăn, các doanh nghiệp chỉ xuất khẩu cầm chừng vì không có nhiều đơn hàng.

Trong khi đó, chuỗi sản xuất - cung ứng của nhiều doanh nghiệp bị đứt gãy; hàng hóa tồn kho với số lượng lớn, doanh nghiệp khó khăn trong việc tiếp cận khách hàng; giảm đơn hàng, giảm sản lượng, trì hoãn, phát sinh thêm chi phí phòng chống dịch COVID-19. Nhiều trường hợp doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp kinh doanh lĩnh vực thu mua và chế biến nông sản dừng hoạt động do dịch. 

Minh Phương/Báo Tin tức