06:16 14/06/2011

Công bố các ấn phẩm Tổng điều tra dân số và nhà ở Việt Nam năm 2009

Ngày 14/6 tại Hà Nội, Cơ quan Liên hợp quốc tại Việt Nam phối hợp với Tổng cục Thống kê công bố các ấn phẩm Tổng điều tra dân số và nhà ở Việt Nam năm 2009, nhằm cung cấp các số liệu dân số chính xác, là cơ sở quan trọng để đánh giá các Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ...

Ngày 14/6 tại Hà Nội, Cơ quan Liên hợp quốc tại Việt Nam phối hợp với Tổng cục Thống kê công bố các ấn phẩm Tổng điều tra dân số và nhà ở Việt Nam năm 2009, nhằm cung cấp các số liệu dân số chính xác, là cơ sở quan trọng để đánh giá các Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ, hỗ trợ việc xây dựng các chính sách, chiến lược phát triển đúng đắn, phù hợp.

Ảnh: Internet


Phát biểu khai mạc, Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê Đỗ Thức và Quyền Điều phối viên thường trú Liên hợp quốc tại Việt Nam Bruce Campbell đều nhấn mạnh: Kết quả Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009 sẽ đóng vai trò quan trọng trong công tác lập kế hoạch và xây dựng chính sách phát triển kinh tế - xã hội. Bên cạnh đó, số liệu Tổng điều tra cũng hết sức cần thiết trong việc theo dõi sự khác biệt giữa thành thị và nông thôn, các vùng địa lý và các nhóm dân số dễ bị tổn thương, đồng bào dân tộc thiểu số, cũng như đạt được các mục đích và mục tiêu đề ra trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, các chiến lược ngành, đánh giá tiến độ đạt các Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ. Động thái dân số ảnh hưởng tới mọi khía cạnh của con người, phát triển xã hội và kinh tế, do đó, các cơ quan chức năng cần phải thấy tầm quan trọng của các số liệu thu thập được từ cuộc Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009 và từ các nguồn tin cậy khác để có thể sử dụng những số liệu này như là một bằng chứng đánh giá tiến bộ đạt được các mục tiêu đề ra trong tất cả các kế hoạch phát triển ngành, cũng như kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và các Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ.

Theo dự báo dân số của Tổng cục Thống kê với phương án mức sinh trung bình, dân số Việt Nam sẽ đạt 95,3 triệu người vào năm 2019; 102,7 triệu người vào năm 2029 và 108,7 triệu người vào năm 2049.

Kết quả phân tích về giáo dục cho thấy, tỷ lệ biết đọc, biết viết của dân số từ 15 tuổi trở lên là 93,5%, tăng 3,2% so với năm 1999. Sự khác biệt giữa nam và nữ về tỷ lệ biết đọc, biết viết có xu hướng giảm mạnh từ 10% vào năm 1989 xuống còn 4,4% vào năm 2009. Những con số này cho thấy sự tiến bộ đáng kể trong việc đạt được Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ về tăng cường bình đẳng giới. Tuy vậy, tỷ lệ biết đọc, biết viết của một số dân tộc như Thái, Khme và Mông vẫn còn tương đối thấp so với mức trung bình của cả nước. Tỷ lệ dân số 5 – 18 tuổi hiện không đi học của một số tỉnh phía Nam còn cao như Bình Dương (30,8%), Bạc Liêu (26,2%), An Giang (25,9%) và Sóc Trăng (25,8%) đang là thách thức trong vấn đề nâng cao chất lượng giáo dục và phát triển nguồn nhân lực của nước ta.

Cũng theo kết quả phân tích sâu về cấu trúc tuổi và giới tính. Việt Nam đã bước vào thời kỳ “Cơ cấu dân số vàng” có nghĩa là cứ hai hoặc hơn hai người trong độ tuổi 15 – 64 gánh một người trong độ tuổi phụ thuộc. Thời kỳ này bắt đầu vào khoảng năm 2007 và theo dự báo thì sẽ kết thúc vào năm 2041. Thời kỳ này chỉ ra xảy ra duy nhất một lần trong lịch sử nhân khẩu học của mỗi quốc gia và sẽ đóng góp vào sự phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam nếu Chính phủ có những chính sách phát triển nguồn nhân lực và tạo cơ hội việc làm phù hợp, đặc biệt chú trọng đến lực lượng lao động trẻ. Như vậy cùng với cơ hội "Cơ cấu dân số vàng" Việt Nam cũng cần có những ứng phó với già hóa dân số để đảm bảo an sinh xã hội và chăm sóc y tế cho người già, đặc biệt người già trong nhóm hộ nghèo, người già tàn tật ở các vùng nông thôn.

Trong khi tỷ số giới tính trong nhóm dân số cao tuổi ( 60 tuổi trở lên) khá thấp (67,8% ) do mức tử vong của nam cao hơn và do hậu quả của các cuộc chiến tranh đã qua. Tỷ số giới tính của dân số trẻ em dưới 15 tuổi khá cao (106,9). Số liệu cho thấy có hiện tượng mất cân bằng giới tính khi sinh (nhiều bé trai hơn bé gái) và có thể dẫn đến một số thách thức kinh tế, văn hóa, xã hội. Kết quả phân tích sâu số liệu điều tra về di cư cũng cho thấy trong giai đoạn 2004 – 2009 có 6,6 triệu người di cư trong và ngoài tỉnh ở Việt Nam, đa số người di cư là thanh niên, trong đó có nữ di cư tăng đáng kể. Di cư trong nước là động lực cho phát triển, nhưng cũng là một thách thức cho đất nước. Di cư từ nông thôn ra thành thị đang tạo nhiều áp lực đối với vấn đề cơ sở hạ tầng đô thị và nhu cầu các dịch vụ xã hội hiện nay, người già và trẻ em ở quê nhà thường dễ bị tổn thương hơn.

Nguyễn Hồng Điệp