12:01 19/12/2012

Có người con gái bên mâm pháo

12 ngày đêm lịch sử cuối năm 1972, họ là những cô gái bên mâm pháo cao xạ góp phần làm nên huyền thoại “Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không”. Câu nói “giặc đến nhà đàn bà cũng đánh” rất đúng với những người con gái quả cảm.

12 ngày đêm lịch sử cuối năm 1972, họ là những cô gái bên mâm pháo cao xạ góp phần làm nên huyền thoại “Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không”. Câu nói “giặc đến nhà đàn bà cũng đánh” rất đúng với những người con gái quả cảm. 40 năm sau, họ đã trở thành những bà nội, bà ngoại, tóc đã pha sương, nhưng ký ức về một thời bi thương, hào hùng vẫn như mới ngày hôm qua…

 

Lực lượng dân quân Hà Nội nêu cao cảnh giác, ngày đêm luyện tập, sẵn sàng bắn rơi máy bay Mỹ. Ảnh: Văn Sắc - TTXVN

 

Nằm sâu trong con hẻm 151, ngách 751 là ngôi nhà của bà Phạm Thị Viễn, công nhân Nhà máy Cơ khí Mai Động. Nhìn người phụ nữ tóc đã pha sương đang chăm chút cho đứa cháu nội chưa tròn tuổi từng thìa ăn dặm, không quá khó để nhận ra những đường nét trên khuôn mặt của nữ pháo thủ trên đầu trắng vành khăn tang, đã từng điểm xạ bắn hạ máy bay siêu thanh F111 A của không quân Hoa Kỳ. Bà Viễn bảo: “Đứa thứ hai của cậu con út nhà này đấy”.

 

Trắng vành khăn tang


Nghe nhắc đến những ngày cuối tháng Chạp 40 năm về trước, giọng bà chùng xuống, đưa chúng tôi ngược về những năm tháng đau thương nhất trong cuộc đời bà. Sinh năm 1951 trong một gia đình đã nghèo lại đông con, năm 1966, bà phải khai tăng tuổi để vào học nghề tại Nhà máy cơ khí Mai Ðộng. Sau đó, bà chính thức làm công nhân thợ nguội. Đất nước đang chiến tranh, bà vừa phải tăng ca sản xuất vừa tham gia chiến đấu. Năm 1967, giặc Mỹ điên cuồng leo thang bắn phá miền Bắc. Trong một lần máy bay địch đánh phá, rải bom bi xuống khu vực Hoàng Mai, mẹ bà Viễn trúng bom. Bản thân bà Viễn cũng bị thương bởi vệt bom này. Biết tin mẹ mất, nhìn cảnh hoang tàn đổ nát của ngôi nhà, bà ôm cậu em trai 4 tuổi khóc. Đầu hai chị em trắng vành khăn tang. Năm đó, bà Phạm Thị Viễn mới 17 tuổi. “Ngay ngày hôm sau, biết là tự vệ Nhà máy được tập trung cao độ để tăng cường sức chiến đấu và phục vụ chiến đấu, tôi lập tức nộp đơn xin vào đội Tự vệ của Nhà máy và được Ban chỉ huy chấp nhận, kết nạp vào đội tự vệ” - giọng bà Viễn thoáng nghẹn ngào.


Những ngày cuối năm 1972, khi đế quốc Mỹ đem B52 rải thảm xuống thủ đô với âm mưu tàn độc “đưa Hà Nội trở về thời kỳ đồ đá”, bà Phạm Thị Viễn tham gia trực chiến trên trận địa cả ngày lẫn đêm. Hỏa lực của Trung đội súng máy cao xạ của Nhà máy Cơ khí Mai Động là hai khẩu 14,5 mm với nhiệm vụ bảo vệ các mục tiêu phía Nam thành phố trước các máy bay chiến thuật của địch như: Nhà máy dệt 8/3; nhà máy Cơ khí Mai Động; nhà máy Dệt Minh Khai, nhà máy bánh kẹo Hải Châu và các trận địa pháo 37mm, 100mm của bộ đội khu vực Vĩnh Tuy, Mai Động, Vân Đồn… “Trong những ngày đó, tôi thường từ trận địa về nhà lấy gạo mang đi. Bố tôi hay dặn dò con rất kỹ, nào là việc ăn ở nơi tập thể khi xa gia đình đến việc qua lại trông nom nhà cửa mỗi lúc ông đi thăm các em...” - bà Viễn kể lại.

 

Bắn hạ “cánh cụp cánh xòe”


Nói tới chiến công vào chiều 22/12/1972, bà Viễn bảo: “Đó là chiến công của cả tập thể”. Rồi bà kể: Ngày ấy, những nữ pháo thủ của các xí nghiệp, nhà máy trẻ lắm, tất cả đều trên dưới 20 tuổi. Ðêm hôm trước, khu tập thể Tổ rập của Nhà máy bị bom đánh trúng. Anh em trong đơn vị vừa khẩn trương cứu người bị thương, vừa đưa người chết đi mai táng gần trận địa. Ai cũng căm hờn lũ “giặc trời”. Ý chí quyết tâm chiến đấu đánh trả lũ “con ma”, “thần sấm”, “cánh cụp cánh xòe”, đánh trả B52 vô cùng sôi sục. Đến khoảng 14 giờ ngày 22/12, đất trời Hà Nội chìm trong khói lửa, đặc biệt là khu vực Mai Hương. Bom đạn nổ inh tai nhức óc. Bộ đội phòng không của ta đánh trả quyết liệt. Trận địa của bà ở Vân Đồn, với hai khẩu pháo của Nhà máy cơ khí Lương Yên, một khẩu của Nhà máy Gỗ, và hai khẩu của Nhà máy cơ khí Mai Ðộng, vẫn trụ vững vàng. Chỉ huy liên đội tự vệ này là trung úy Hoàng Minh Giám, một sĩ quan trẻ vừa được Quân khu Thủ đô điều ra hỗ trợ.


“Khoảng 20 giờ 30 phút, mặc bom đạn gào rít chung quanh, anh chị em căng mắt đón chờ máy bay tầm thấp. Trong những luồng chớp lửa, chúng tôi nhìn nhau, gương mặt ai cũng hốc hác, nhưng đôi mắt thì rực lửa. Lúc này, một tốp F111 A xuất hiện. Chúng bay thấp, dọc sông Hồng. Anh Hoàng Minh Giám kiên nhẫn đợi rồi hạ lệnh: “Một điểm xạ ngắn, bắn!”. Năm khẩu pháo đồng loạt khạc lửa. Tôi ở vị trí pháo thủ số 1 nhìn thấy rất rõ chiếc máy bay trúng đạn, phần đuôi của nó lóe sáng... Khoảng 30 phút sau, một chiếc xe quân sự của quận Hai Bà Trưng chạy vào thông báo tin vui: “Các chị vừa bắn phải không. Một máy bay F111A trúng đạn rơi rồi nhé”. Nghe thế, tôi cùng pháo thủ Đỗ Thị Dần và cả khẩu đội ôm nhau hò reo vui mừng khôn xiết”- Bà Viễn bồi hồi nhớ lại.


Mấy ngày sau, bom Mỹ tiếp tục dội xuống Hà Nội. Trận địa pháo cao xạ của bà Viễn không một phút thảnh thơi. Các nữ pháo thủ thay phiên nhau trực chiến trên mâm pháo. Ngày 26/12/1972, Hà Nội bị đánh phá ác liệt. Còi báo động chốc chốc lại rú lên từng hồi. Khói lửa loang trời. Bom B52 rải thảm xuống các khu dân cư như phố Khâm Thiên, Yên Viên, Gia Lâm... Rạng sáng hôm sau, bà Viễn đang trực chiến thì hai người em gái bà chạy đến trên trận địa mang theo một tin dữ: "Bố bị bom thả chết rồi!". Bà Viễn như ngất đi. Ba chị em ôm nhau khóc. “Tôi đưa hai em về nhà, nhưng không sao tìm được thi thể bố. Căn hầm nơi ông thường ẩn nấp bây giờ là một hố bom sâu hoắm. Mãi ba ngày sau, mới tìm thấy bố nhưng chỉ còn một phần thân thể rách nát. Tôi chỉ nhận ra ông qua vạt áo bông đẫm máu” - bà Viễn nghẹn ngào kể lại.

 

Người con gái của “máu và hoa”


Sau đó mấy ngày, Đại tướng Võ Nguyên Giáp cùng nhà thơ Tố Hữu đến thăm trận địa pháo của Nhà máy Cơ khí Mai Động, nhìn thấy cô pháo thủ trẻ đầu trắng khăn tang đang ngồi bên mâm pháo. Đại tướng Võ Nguyên Giáp và nhà thơ Tố Hữu đã hỏi thăm hoàn cảnh của bà. Câu chuyện của cô pháo thủ Phạm Thị Viễn khiến nhà thơ Tố Hữu hết sức xúc động. Ông ân cần thăm hỏi động viên cả khẩu đội rồi nói chuyện với chị hồi lâu. Sau đó ít lâu, có một người mang tặng bà bài thơ "Việt Nam máu và hoa" của nhà thơ Tố Hữu. Bài thơ ấy có bốn câu mà bà nhớ mãi:


"...Trắng khăn tang em chẳng khóc đâu
Hỡi em gái mất cha mất mẹ
Nước mắt rơi làm nhòa mặt quân thù
Em phải bắn trúng đầu giặc Mỹ…”


Sau chiến dịch "Ðiện Biên Phủ trên không", pháo được kéo về trận địa cũ. Bà Phạm Thị Viễn lại cùng trung đội tự vệ vừa sản xuất, vừa trực chiến. Năm 1979, Nhà máy được trang bị thêm một đại đội pháo 37mm, với cương vị đại đội phó, bà gắn bó với trận địa mãi đến năm 1989 mới trở lại nhà máy làm việc. “Năm 1991, do hoàn cảnh gia đình hết sức khó khăn, tôi xin về hưu với mức lương khiêm tốn. Cũng vất vả bươn chải đủ nghề để nuôi dạy đàn con khôn lớn trưởng thành. Còn bản thân tôi, được tín nhiệm bầu làm tổ phó tổ dân phố 49 - khu dân cư 10 (phường Tương Mai)” - bà Viễn nói.


Anh Tùng - Viết Tôn