Đằng sau những guồng quay hối hả của các nhà máy, xí nghiệp, công xưởng sản xuất với kỳ vọng thúc đẩy nền công nghiệp trong nước ngày càng phát triển, lại là những trăn trở, đau đáu về tình trạng thiếu hụt nguồn nhân lực, đặc biệt là những con người có thể làm chủ cuộc chơi công nghệ.
Lớp chất lượng cao đào tạo thí điểm theo chương trình chuyển giao từ CHLB Đức K58 – khoa Công nghệ ô tô. Ảnh tư liệu: Anh Tuấn/TTXVN
Ông Đỗ Thế Đăng, Trưởng phòng phát triển kinh doanh Công ty AESC kiêm Phó Giám đốc Công ty TNHH Trường hàng không New Zealand tâm sự, thực tế hiện nay, dù môi trường làm việc và mức thu nhập trong các nhà máy hiện đại đã có nhiều thay đổi tích cực; nhưng trong suy nghĩ của đa số giới trẻ vẫn tồn tại không ít định kiến về ngành công nghiệp "nặng nhọc", "bụi bặm", "lương thấp"... khiến họ ngần ngại khi quyết định và lựa chọn nghề nghiệp
Dù có hàng trăm nghìn lao động làm việc trong ngành cơ khí, nhưng Việt Nam vẫn đang phải đối mặt với tình trạng "khát" nhân lực chất lượng cao. Số lượng lao động phổ thông, công nhân gia công đông đảo, nhưng tỷ lệ kỹ sư, kỹ thuật viên có tay nghề cao, chuyên môn sâu, đáp ứng yêu cầu của các dây chuyền sản xuất hiện đại lại rất thấp.
Tìm hiểu khoảng cách giữa đào tạo và thực tiễn sản xuất và cũng là nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng này thiếu hụt nguồn nhân lực, ông Đỗ Thế Đăng, đại diện AESC chia sẻ, tại nhiều cơ sở đào tạo, nhiều trường nghề, cao đẳng, đại học vẫn còn nặng về lý thuyết, thiếu giờ thực hành chuyên sâu; trang thiết bị lạc hậu, chưa theo kịp với công nghệ hiện đại mà các doanh nghiệp đang sử dụng như máy CNC, robot công nghiệp, hệ thống tự động hóa. Thêm vào đó, đội ngũ giảng viên, dù vững về kiến thức hàn lâm, nhưng lại thiếu kinh nghiệm thực tế tại các nhà máy hiện đại, chưa cập nhật kịp những công nghệ mới nhất. Về phía người học, một bộ phận lớn học sinh, sinh viên vẫn còn thiếu sự định hướng nghề nghiệp rõ ràng. Tâm lý "chuộng bằng cấp đại học" hơn là tay nghề thực tế vẫn phổ biến, dẫn đến tâm lý không mặn mà với các ngành kỹ thuật, nghề cơ khí.
Hậu quả của sự thiếu hụt nhân lực chất lượng cao là vô cùng lớn, các doanh nghiệp khó mở rộng quy mô sản xuất, chậm đổi mới công nghệ vì không có đủ đội ngũ kỹ sư, kỹ thuật viên vận hành và làm chủ công nghệ mới. Chất lượng sản phẩm không đồng đều, khó đáp ứng các tiêu chuẩn khắt khe của chuỗi cung ứng toàn cầu. Ngành công nghiệp hỗ trợ Việt Nam vẫn phụ thuộc nhiều vào công nghệ và chuyên gia nước ngoài, làm tăng chi phí và giảm tính tự chủ.
Cụ thể như ngành công nghiệp hàng không. Đây là ngành yêu cầu về kỹ sư, kỹ thuật viên cơ khí chính xác, tự động hóa vô cùng khắt khe; đòi hỏi những người không chỉ có kiến thức hàn lâm mà phải thành thạo các phần mềm thiết kế chuyên dụng, có khả năng tư duy hệ thống và thực hành trên các thiết bị hiện đại. Việc tuyển dụng nhân sự đạt chuẩn là một bài toán khó khăn và phải tốn rất nhiều chi phí, thời gian để đào tạo lại cho nhân viên mới tuyển, đôi khi phải gửi đi nước ngoài học hỏi.
Đồng quan điểm, ông Phan Đăng Tuất, Chủ tịch Hiệp hội Chủ tịch Hiệp hội Công nghiệp Hỗ trợ Việt Nam (VASI), cho biết, hầu hết các doanh nghiệp thành viên đều phản ánh về sự thiếu hụt nghiêm trọng nhân lực tay nghề cao, đặc biệt là các vị trí như kỹ sư CNC, kỹ sư thiết kế khuôn mẫu, chuyên gia tự động hóa. Khi các tập đoàn đa quốc gia yêu cầu VASI tham gia sâu hơn vào chuỗi cung ứng toàn cầu, nên hiện tại, cộng đồng ngành công nghiệp cơ khí đang rất cần những con người có thể làm chủ công nghệ và sáng tạo, chứ không chỉ là gia công đơn thuần. Mong muốn lớn nhất của VASI nói chung và các doanh nghiệp ngành này là những chương trình đào tạo phải thực sự 'chạm' đến nhu cầu của doanh nghiệp.
PGS.TS. Vũ Thanh Tùng, Phó trưởng Khoa Cơ khí chế tạo máy, Trường Cơ khí - Đại học Bách Khoa Hà Nội, nhận định, muốn thu hút giới trẻ đến với ngành cơ khí, điều cốt lõi là phải thay đổi nhận thức từ gốc rễ. Các trường cần tăng cường hướng nghiệp thực tế, đưa học sinh đến tham quan các nhà máy hiện đại, công nghệ cao để có cái nhìn chân thực về môi trường làm việc; tổ chức các buổi nói chuyện với các kỹ sư, chuyên gia trẻ thành công trong ngành để khơi gợi niềm đam mê. Đồng thời, công bố rộng rãi các thông tin về tiềm năng nghề nghiệp, mức thu nhập hấp dẫn của các vị trí kỹ sư, kỹ thuật viên tay nghề cao trong ngành để thu hút học sinh, sinh viên.
Thêm vào đó, cần thu hẹp khoảng cách giữa đào tạo và thực tiễn với sự liên kết chặt chẽ giữa "Nhà trường - Doanh nghiệp - Nhà nước". Các cơ sở đào tạo cần cập nhật chương trình học theo hướng ứng dụng, bám sát các công nghệ mới nhất mà doanh nghiệp đang cần (robot công nghiệp, IoT trong sản xuất, AI trong thiết kế, vật liệu mới, công nghệ in 3D...); tăng cường thời lượng thực hành, thực tập tại doanh nghiệp. Nhà nước cần có chính sách khuyến khích, hỗ trợ các cơ sở đào tạo (đặc biệt là trường nghề, cao đẳng) nâng cấp trang thiết bị, xây dựng các phòng thí nghiệm, xưởng thực hành hiện đại, mô phỏng đúng môi trường sản xuất thực tế.
Khẳng định vai trò của Nhà nước, ông Trần Việt Hoà, Cục trưởng, Cục Công nghiệp, Bộ Công Thương cho biết, Chính phủ vừa ban hành Nghị định 205/2025/NĐ-CP sửa đổi và bổ sung quy định về phát triển công nghiệp hỗ trợ; qua đó thể hiện, Nhà nước rất chú trọng liên kết giữa doanh nghiệp và nhà trường, khuyến khích các mô hình đào tạo thực chiến và có chính sách hỗ trợ các cơ sở đào tạo đầu tư thiết bị. Mục tiêu là để đầu ra của các trường phải đáp ứng được yêu cầu của doanh nghiệp, giúp sinh viên sau khi tốt nghiệp có thể làm việc được ngay.
Việc tạo đòn bẩy cho ngành cơ khí và nguồn nhân lực chất lượng cao cho nền công nghiệp Việt Nam đang là yêu cầu bức thiết, đòi hỏi sự quan tâm và đầu tư đúng mức. Đây là tiền đề tiến tới xây dựng đội ngũ nhân lực cơ khí "tinh hoa", vững vàng về kiến thức, giỏi về tay nghề, sẵn sàng làm chủ công nghệ.