Sáng 19/6, trả lời chất vấn của các đại biểu Đại biểu Quốc hội, trong đó có ý kiến chất vấn của đại biểu Nguyễn Hải Dũng (Đoàn ĐBQH tỉnh Nam Định) về nhóm vấn đề cơ chế, chính sách thúc đẩy, thu hút đầu tư, phát triển các khu công nghiệp, khu kinh tế (KCN, KKT), Bộ trưởng Nguyễn Văn Thắng cho biết, với sự chỉ đạo sát sao của các cấp, các ngành đến nay hệ thống các KCN, KKT trên cả nước đã được hình thành và phát triển, đóng góp vào phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Bộ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Văn Thắng trả lời chất vấn. Ảnh: Doãn Tấn/TTXVN
Các KCN, KKT thu hút khoảng 11,6 nghìn dự án đầu tư nước ngoài
Tính đến hết tháng 5 năm 2025, cả nước đã có 472 KCN, 20 KKT ven biển và 26 KKT cửa khẩu đã được thành lập. Trong đó, có 472 KCN có tổng diện tích đất tự nhiên đạt khoảng 144,5 nghìn ha, tạo ra quỹ đất công nghiệp đạt khoảng 100 nghìn ha. Tổng diện tích đất công nghiệp đã cho thuê của các KCN cả nước đạt khoảng 53,9 nghìn ha, đạt tỷ lệ lấp đầy khoảng 53,3%. 20 KKT ven biển đã thành lập có tổng diện tích mặt đất và mặt nước khoảng 891,5 nghìn ha. Tổng diện tích đất đã cho thuê để thực hiện các dự án đầu tư sản xuất đạt khoảng 22.000 ha. 26 KKT cửa khẩu được thành lập tại 21/25 tỉnh biên giới đất liền với tổng diện tích khoảng 776.000 ha.
Theo Bộ trưởng Nguyễn Văn Thắng, các KCN, KKT đã tạo thu hút đầu tư và góp phần phát triển sản xuất kinh doanh. Đến hết tháng 5 năm 2025, các KCN, KKT trên cả nước đã thu hút khoảng 11,6 nghìn dự án đầu tư nước ngoài và 10,8 nghìn dự án có vốn đầu tư trong nước (dự án thứ cấp) còn hiệu lực, với tổng vốn đầu tư đăng ký tương ứng khoảng 298,7 tỷ USD và 3,57 triệu tỷ đồng; vốn thực hiện tương ứng đạt khoảng 58% và 43,5%. Các KCN, KKT đang giải quyết việc làm cho khoảng gần 4,17 triệu lao động trực tiếp.
Các KCN, KKT đã bước đầu xây dựng chuỗi liên kết ngành, lĩnh vực thông qua hình thành cụm sản xuất công nghiệp tập trung có tính liên kết với một số dự án hạt nhân, thu hút doanh nghiệp vệ tinh trong nước, góp phần nâng cao tỷ lệ nội địa hóa, tạo nền tảng quan trọng thúc đẩy liên kết ngành, vùng và phát triển sản xuất công nghiệp quy mô lớn. Tỷ trọng giá trị sản xuất công nghiệp của dự án đầu tư trong KCN, KKT trong tổng giá trị sản xuất công nghiệp của cả nước đạt khoảng 56% (năm 2024).
Giá trị xuất khẩu của doanh nghiệp trong KCN, KKT chiếm hơn 50% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Tỷ lệ thu NSNN trên địa bàn KCN, KKT chiếm tỷ lệ đáng kể trong tổng thu NSNN của các địa phương. Các KCN, KKT góp phần thúc đẩy đô thị hóa và phát triển các ngành dịch vụ. Tỷ lệ KCN đang hoạt động có trạm xử lý nước thải tập trung đạt tiêu chuẩn môi trường tăng lên từng năm.
Việc chuyển đổi mô hình phát triển KCN theo hướng cân bằng về kinh tế, xã hội và môi trường, bảo đảm sự phát triển bền vững và thực hiện mục tiêu tăng trưởng xanh đến nay đạt được nhiều kết quả tích cực.
Việt Nam đã đẩy mạnh chuyển đổi một số KCN từ mô hình truyền thống sang KCN sinh thái thông qua thúc đẩy sản xuất sạch hơn và liên kết hợp tác trong sản xuất để sử dụng hiệu quả nguồn lực nhằm thu hút đầu tư xanh và tăng năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam khi tham gia chuỗi giá trị, đáp ứng yêu cầu của chuỗi ngành hàng tại các thị trường có tiêu chuẩn cao (như EU, Hoa Kỳ).
Về cơ chế, chính sách, Chính phủ đã ban hành các Nghị định số 82/2018/NĐ-CP ngày 22/5/2018 và số 35/2022/NĐ-CP ngày 28/5/2022 quy định về quản lý KCN và KKT trong đó có mô hình KCN sinh thái, gồm chính sách hỗ trợ và hợp tác phát triển KCN sinh thái; tiêu chí xác định; các ưu đãi; trình tự, thủ tục, hồ sơ đăng ký chứng nhận KCN sinh thái, doanh nghiệp sinh thái; các quy định liên quan đến chứng nhận lại hoặc chấm dứt hiệu lực, thu hồi Giấy chứng nhận KCN sinh thái, doanh nghiệp sinh thái; khuyến khích, định hướng việc quy hoạch và xây dựng mới các KCN sinh thái thông qua quy hoạch xây dựng, thiết kế hợp lý các phân khu chức năng và định hướng thu hút các dự án đầu tư có ngành, nghề tương đồng để hỗ trợ thực hiện cộng sinh công nghiệp, ưu đãi để khuyến khích phát triển KCN sinh thái mới như không áp dụng tỷ lệ lấp đầy đối với mô hình KCN này; đơn giản hóa các điều kiện, tiêu chí và thủ tục chứng nhận KCN sinh thái, doanh nghiệp sinh thái; quy định việc thực hiện theo dõi, giám sát, đánh giá hiệu quả thực hiện KCN sinh thái và doanh nghiệp sinh thái trên hệ thống thông tin về KCN, KKT theo định hướng chuyển đổi số.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư (nay là Bộ Tài chính) đã ban hành Thông tư 05/2025/TT-BKHĐT ngày 24/1/2025 hướng dẫn xây dựng KCN sinh thái. Trên cơ sở đó, nhiều địa phương đã xây dựng đề án, chiến lược chuyển đổi các KCN theo hướng bền vững, gắn kết chặt chẽ giữa chuyển đổi số và chuyển đổi xanh.
Kết hợp giữa tăng trưởng theo chiều rộng và chiều sâu
Mặc dù cơ chế chính sách phát triển kinh tế trong KCN, KKT đã đạt được những kết quả tích cực nhưng Bộ trưởng Nguyễn Văn Thắng cũng chỉ ra những tồn tại, hạn chế, đó là: Mô hình phát triển các KCN, KKT theo hướng đa ngành, đa lĩnh vực với động lực phát triển chủ yếu dựa trên khai thác tiềm năng tĩnh (đất, nhân công giá rẻ và chính sách ưu đãi tài chính), việc phát triển theo các mô hình mới còn chậm.
Chất lượng và hiệu quả thu hút đầu tư vào KCN, KKT chưa tương xứng với tiềm năng, số lượng các dự án sử dụng công nghệ cao, công nghệ mới trong các KCN, KKT còn chưa cao; chuyển giao công nghệ giữa các doanh nghiệp nước ngoài và doanh nghiệp trong nước trong các KCN, KKT còn chưa rõ nét.
Vấn đề phát triển bền vững và cân bằng về kinh tế, môi trường và xã hội trong phát triển KCN, KKT đã được đặt ra nhưng kết quả thực hiện khác nhau và không đồng đều giữa các địa phương.
Đề ra những giải pháp trong thời gian tới, Bộ trưởng Nguyễn Văn Thắng cho rằng, cần nâng cao hiệu quả KCN, KKT bám sát định hướng, chủ trương của Đảng, Chính phủ theo các hướng: Kết hợp hợp lý giữa tăng trưởng theo chiều rộng và chiều sâu, trong đó lấy tăng trưởng theo chiều sâu là hướng chủ đạo. Xác định rõ trọng tâm phát triển và cơ chế, chính sách vượt trội phù hợp với đặc thù của từng mô hình, bảo đảm tính liên kết, đồng bộ với các khu vực khác.
Phát triển KKT, KCN sinh thái ven biển gắn với hình thành và phát triển các trung tâm kinh tế biển mạnh. Phát triển KCN, KKT gắn với khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số và phát triển hơn nữa khu vực kinh tế tư nhân. Tiếp tục nghiên cứu và triển khai thí điểm các mô hình KKT đặc thù, khu thương mại tự do, trung tâm tài chính quốc tế, các mô hình kinh tế mới tại một số địa phương có tiềm năng và đáp ứng các điều kiện, tiêu chí.
Hoàn thiện cơ chế, chính sách thúc đẩy thu hút đầu tư, phát triển KCN, KKT theo các định hướng: Nghiên cứu, bổ sung quy định về các loại hình KCN, KKT mới, khu chức năng mới trong KKT và các mô hình tương tự có hiệu quả hoạt động cao hơn loại hình KCN, KKT hiện hữu. Hoàn thiện, bổ sung chính sách ưu đãi đầu tư đối với KCN, KKT, các KCN, KKT hoạt động theo loại hình mới, khu chức năng mới trong KKT và các mô hình tương tự. Hoàn thiện, bổ sung quy định nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về KCN, KKT và các mô hình tương tự theo hướng mô hình tổ chức và quản lý tinh gọn, đủ thẩm quyền; đẩy mạnh phân cấp, phân quyền quản lý, đơn giản hóa thủ tục hành chính.