Ngày 27/11, tại Hà Nội, Bộ Khoa học và Công nghệ tổ chức lễ công bố khai trương hệ thống quản lý trực tuyến các nhiệm vụ khoa học và công nghệ (KHCN) theo thời gian thực.
Bộ trưởng Bộ KHCN Nguyễn Mạnh Hùng đánh giá, đây là một sản phẩm công nghệ mới, là nền tảng mới cho đổi mới mô hình quản lý KHCN, là bước tiến quan trọng để Việt Nam bước vào giai đoạn quản lý dựa trên dữ liệu, quy trình số và chuẩn mực quốc tế.
Quang cảnh lễ hệ thống quản lý trực tuyến các nhiệm vụ khoa học và công nghệ.
“Muốn đổi mới KHCN phải đổi mới quản lý KHCN, chuyển từ quản lý sang tạo động lực, từ kiểm soát hành chính sang vận hành bằng dữ liệu và minh bạch, từ phân tán sang tích hợp và chuẩn hóa. Hệ thống phần mềm mới sẽ giúp tăng chất lượng thẩm định, rút ngắn thời gian xét duyệt, hạn chế sai sót và rủi ro, đánh giá chính xác, đóng góp của từng nhiệm vụ và đặc biệt là tạo ra thị trường nhiệm vụ KHCN chuyên nghiệp. Đây chính là tinh thần quản lý ít hơn, dẫn dắt nhiều hơn, kiểm soát ít hơn và kiến tạo nhiều hơn, chuyển từ xin cho sang công khai và minh bạch” – Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng nhấn mạnh.
Bộ trưởng đề nghị các nhà khoa học, các hội đồng, các cơ quan chủ trì tích cực sử dụng hệ thống phần mềm này, một sản phẩm do người Việt Nam phát triển có các tính năng tương đương như của Hàn Quốc… và có thể kết nối để đồng tài trợ với các quốc gia phát triển. Đồng thời cần phản hồi để hoàn thiện và coi đây là công cụ không thể thiếu trong hoạt động nghiên cứu này. Phần mềm sẽ được liên tục cải tiến, vừa theo chuẩn mực quốc tế vừa đáp ứng được thực tiễn của Việt Nam.
Không chỉ giúp Quỹ NAFOSTED vốn có truyền thống minh bạch và chuẩn mực đưa các chuẩn mực đó lên một mức độ cao hơn, Bộ trưởng kỳ vọng hệ thống quản lý nhiệm vụ KHCN này sẽ trở thành một chuẩn mực mới cho quản lý nghiên cứu tại Việt Nam, là thí dụ về chuyển đổi số thực chất, có quy trình, có dữ liệu, có chuẩn mực và có hiệu quả.
Cũng tại lễ công bố, 309 đề tài KHCN được Quỹ NAFOSTED ký kết. Đây là những đề tài đầu tiên theo tinh thần của Luật KHCN mới, chuyển từ quản lý đầu vào sang quản lý đầu ra, từ quản lý hóa đơn, chứng từ sang quản lý kết quả nghiên cứu, chuyển từ chi theo dự toán sang khoán chi, từ kết quả nghiên cứu trả lại nhà nước sang kết quả nghiên cứu thuộc về tổ chức nghiên cứu để mang đi thương mại hóa. Nhóm nghiên cứu trực tiếp sẽ được hưởng ít nhất 30% kết quả thương mại hóa. Một điểm mới đáng chú ý đó là sẽ chuyển từ đánh giá hoàn thành đề tài sang đánh giá kết quả nghiên cứu phải được đưa tới doanh nghiệp, tạo thành sản phẩm thương mại, tạo ra doanh thu, góp phần tăng trưởng GDP và doanh thu này phải bằng từ 5 đến 10 lần chi phí nghiên cứu sau từ 3-5 năm.