Tại Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV, nhiều đại biểu tán thành với sự cần thiết ban hành Nghị quyết để thể chế hóa Nghị quyết 71-NQ/TW của Bộ Chính trị, tạo khung khổ pháp lý cho một số cơ chế, chính sách thật sự mang tính “đột phá” cho giáo dục và đào tạo.
Đề xuất các ngưỡng tối thiểu chi đầu tư phát triển giáo dục
Đại biểu Quốc hội tỉnh Lào Cai Lê Thu Hà. Ảnh: Doãn Tấn/TTXVN
Theo đại biểu Lê Thu Hà (Lào Cai), dự thảo Nghị quyết khẳng định: Nhà nước bảo đảm chi đủ, tối thiểu 20% tổng chi ngân sách Nhà nước cho giáo dục – đào tạo, ưu tiên bố trí ngân sách từ nguồn tăng thu cho phát triển giáo dục, nhất là vùng khó khăn. Đây là bước nâng tầm cam kết của Nhà nước, phù hợp với Nghị quyết 71. Nhưng như Ủy ban Văn hóa và Xã hội đã chỉ ra nhiều năm qua, tỷ lệ chi cho giáo dục có năm chưa đạt 20%; cơ cấu chi nặng về chi thường xuyên (bình quân 10 năm, chi thường xuyên chiếm khoảng 82,4%, chi đầu tư chỉ 17,6%); chi cho giáo dục đại học rất thấp, năm 2024 chỉ khoảng 0,61% tổng chi ngân sách Nhà nước.
“Do vậy, nếu Nghị quyết chỉ dừng lại ở con số 20% 'tổng chi' mà không ấn định tỷ lệ tối thiểu cho chi đầu tư, chi cho giáo dục đại học như Nghị quyết 71 đã nêu, chúng ta sẽ khó tạo được đột phá” – đại biểu Lê Thu Hà nhấn mạnh.
Từ đó, đại biểu đề nghị cân nhắc ghi nhận trong Nghị quyết các ngưỡng tối thiểu: Chi đầu tư phát triển giáo dục ít nhất 5% tổng chi ngân sách Nhà nước; chi cho giáo dục đại học ít nhất 3% tổng chi ngân sách Nhà nước, như tinh thần Nghị quyết 71. Giao Bộ Tài chính, Bộ Giáo dục và Đào tạo có trách nhiệm công khai định kỳ số liệu chi ngân sách cho giáo dục, phân tách rõ chi thường xuyên, chi đầu tư, chi cho giáo dục đại học, để Quốc hội và cử tri giám sát.
Về tổ chức thực hiện, nguồn lực và cơ chế giám sát, đại biểu Lê Thu Hà cho rằng, đây là một Nghị quyết tập trung nhiều chính sách đột phá: từ nhân lực, chương trình, chuyển đổi số, hợp tác quốc tế, tín dụng sinh viên, đào tạo tiến sĩ, đãi ngộ nhà giáo đến đất đai, ngân sách.
Nhiều cơ chế cần nguồn lực rất lớn để triển khai, nên Chính phủ cần xây dựng một Chương trình hành động cụ thể, nêu rõ: Những nhóm chính sách nào triển khai ngay từ 2026; nhóm nào cần lộ trình 5–10 năm; cơ quan chủ trì, phối hợp, chỉ tiêu đánh giá, thời hạn báo cáo Quốc hội.
Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, các Ủy ban của Quốc hội cần xây dựng kế hoạch giám sát chuyên đề đối với việc triển khai Nghị quyết, tập trung vào: Chính sách đãi ngộ nhà giáo và phân bổ ngân sách; tín dụng sinh viên, đào tạo tiến sĩ; ưu đãi đất đai, sử dụng trụ sở công dôi dư; tự chủ và hợp tác quốc tế trong giáo dục đại học.
Trong quá trình triển khai, đại biểu cũng đề nghị Chính phủ luôn lồng ghép yêu cầu bình đẳng giới, chính sách dân tộc, an ninh - quốc phòng trong thiết kế chính sách cụ thể.
Cũng theo đại biểu Lê Thu Hà, để Nghị quyết không chỉ là “tập hợp các ưu đãi đơn lẻ”, mà thực sự trở thành bước ngoặt thể chế cho giáo dục, đại biểu đồng tình với đánh giá của Ủy ban Văn hóa và Xã hội: dự thảo Nghị quyết có cơ sở chính trị, pháp lý rõ ràng, bám sát Nghị quyết 71-NQ/TW và Nghị quyết 281/NQ-CP của Chính phủ, hướng tới gỡ các “điểm nghẽn thể chế” lâu năm như: chính sách nhà giáo, phân bổ nguồn lực, đất đai cho giáo dục, kết nối đào tạo – nghiên cứu – thị trường lao động, chuyển đổi số và hội nhập quốc tế.
Tuy nhiên, đại biểu Lê Thu Hà cho rằng dự thảo hiện vừa có nội dung đột phá, vừa có nhiều nội dung mang tính “bổ khuyết kỹ thuật” cho các luật đang, hoặc sẽ được sửa (Luật Nhà giáo, Luật Giáo dục đại học, Luật Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo…).
“Nếu không 'gạn đục khơi trong' một lần, rất dễ dẫn tới tình trạng một vấn đề được quy định rải rác ở nhiều văn bản với hiệu lực, thời hạn khác nhau, gây khó khăn trong tổ chức thi hành” – đại biểu nhấn mạnh và đề nghị Chính phủ và cơ quan thẩm tra tiếp tục rà soát thật kỹ, bám đúng nguyên tắc mà Ủy ban Văn hóa và Xã hội đã nêu: “Không quy định lại những vấn đề đã được điều chỉnh tại các luật; chỉ lựa chọn, giữ lại những cơ chế, chính sách thực sự cần thiết để tháo gỡ vướng mắc, giải quyết yêu cầu cấp bách”.
Về phát triển nguồn nhân lực ngành giáo dục, đại biểu cho rằng, đây là “trái tim” của Nghị quyết. Từ đó đại biểu nhấn mạnh việc phân cấp tuyển dụng, điều động nhà giáo – tránh “phân mảnh” nhưng phải có giám sát. Cần có cơ chế phối hợp, chia sẻ nhân lực, chuyên gia; chính sách đãi ngộ nhà giáo – phải đi liền với phương án nguồn lực và ưu tiên vùng khó khăn.
Có lộ trình phù hợp với thực tiễn từng vùng, từng địa phương
Đại biểu Quốc hội tỉnh Cao Bằng Đoàn Thị Lê An. Ảnh: Doãn Tấn/TTXVN
Cho ý kiến về phát triển giáo dục, đại biểu Đoàn Thị Lê An (Cao Bằng) cho rằng, hiện nay chúng ta đang bước vào giai đoạn phát triển mới, trong đó chuyển đổi số, trí tuệ nhân tạo, kinh tế xanh – kinh tế tuần hoàn, cùng yêu cầu về nguồn nhân lực chất lượng cao đặt ra thách thức và cơ hội chưa từng có đối với hệ thống giáo dục. Mặc dù những năm qua, ngành giáo dục đã có nhiều cố gắng, song khoảng cách chất lượng giữa các vùng miền vẫn còn lớn; hạ tầng số và cơ sở vật chất chưa đáp ứng yêu cầu đổi mới; đội ngũ giáo viên thiếu hụt, nhất là ở vùng đặc biệt khó khăn; đào tạo nghề và giáo dục đại học vẫn chưa cung ứng đủ nhân lực cho các ngành mũi nhọn.
Trong bối cảnh đó, việc xây dựng một Chương trình mục tiêu quốc gia riêng cho giai đoạn 2026–2035 là hết sức cần thiết, nhằm tăng tính tập trung nguồn lực, bảo đảm sự điều phối liên ngành và tạo bước đột phá cho hệ thống giáo dục trong thập kỷ tới. Tờ trình và dự thảo Nghị quyết đã đưa ra mốc thời gian, mục tiêu cụ thể, nguồn lực thực hiện. Tuy nhiên, đại biểu còn băn khoăn về tính khả thi của chỉ tiêu rất quan trọng: đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai trong các cơ sở giáo dục mầm non và phổ thông, với mốc 30% vào năm 2030 và 100% vào năm 2035.
Đại biểu cho rằng đây là một định hướng lớn, thể hiện quyết tâm hội nhập quốc tế sâu rộng. Tuy nhiên, để triển khai thành công, chúng ta cần đánh giá thẳng thắn những điều kiện và thách thức về cơ sở vật chất, nhân lực và môi trường triển khai.
Đại biểu đề nghị ban soạn thảo nghiên cứu ban hành Chương trình quốc gia đào tạo giáo viên dạy môn học bằng tiếng Anh: mục tiêu đào tạo ít nhất 20.000 giáo viên môn Toán – Khoa học tự nhiên – Tin học có khả năng giảng dạy bằng tiếng Anh đến 2035. Tăng đầu tư cơ sở vật chất cho các tỉnh miền núi như: Hỗ trợ xây dựng phòng ngoại ngữ chuẩn cho 100% trường huyện miền núi trước 2030; ưu tiên vùng miền núi, biên giới, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khóa khăn như: Cao Bằng, Lạng Sơn, Sơn La, Điện Biên, Lai Châu…
Về chính sách thu hút giáo viên tiếng Anh chất lượng cao, đại biểu cho rằng cần quan tâm tăng phụ cấp thu hút lên 70 - 100% lương cơ bản cho giáo viên về vùng khó khăn; hỗ trợ nhà ở, cam kết hợp đồng dài hạn. Bên cạnh đó phát triển mô hình trung tâm tiếng Anh số quốc gia: Xây dựng thư viện học liệu số, AI hỗ trợ phát âm, ứng dụng học tiếng Anh cho học sinh vùng dân tộc thiểu số.
“Việc đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai trong hệ thống giáo dục là một tầm nhìn đúng đắn và cấp thiết. Tuy nhiên, để đạt được 30% vào năm 2030 và 100% vào năm 2035, chúng ta cần đầu tư mạnh mẽ và đồng bộ; chuẩn hóa đội ngũ giáo viên; hỗ trợ đặc thù cho vùng dân tộc thiểu số, miền núi; và có lộ trình phù hợp với thực tiễn từng vùng, từng địa phương” - đại biểu nhấn mạnh.