09:13 05/09/2014

Chầm chậm tới mình…

Ở vào tuổi 73, sau năm lần tai biến, nhà thơ Trúc Thông ngày ngày phải có người nâng niu từng bữa ăn giấc ngủ. Ông giờ như một người khách lạ trong căn nhà yên tĩnh của chính mình, chờ từng ngày trôi đi trong sự mơ hồ của trí nhớ…

Ở vào tuổi 73, sau năm lần tai biến, nhà thơ Trúc Thông ngày ngày phải có người nâng niu từng bữa ăn giấc ngủ. Ông giờ như một người khách lạ trong căn nhà yên tĩnh của chính mình, chờ từng ngày trôi đi trong sự mơ hồ của trí nhớ…


Kiêu bạc kẻ sĩ


Bây giờ, nhà thơ Trúc Thông hoàn toàn không làm chủ được hành vi của mình, cả ngày cứ lặng thinh không nói. Ông gầy đi nhiều so với cái tuổi ngoài 70. Cũng thật may mắn là ông có một người vợ thảo hiền, suốt đời chăm lo cho “ông thi sĩ” chỉ mải mê đi tìm cái hay cái đẹp, cái lãng mạn cho những câu thơ. Đến khi ông ngã bệnh, chị dần dần phải bán cả ngôi nhà mười mấy mét vuông trên phố Hồng Phúc để có tiền chạy chữa cho chồng, còn được ít tiền, đem về xây nhà trên mảnh đất bố mẹ đẻ chị hồi môn cho con ở Cầu Giấy. Chị chia sẻ: “Khi đau yếu, phải động viên mãi, anh Trúc Thông mới chịu về ở đây chứ khi còn khỏe mạnh, anh ấy không chịu về ở nhà vợ đâu”. Điều này, có lần nhà thơ Trúc Thông đã từng nói chuyện với nhà thơ Vũ Quần Phương với một vẻ đầy kiêu bạc của một “kẻ sĩ”: “Tôi thế này mà phải đi ở nhà của nhà vợ à!”.

 

Nhà thơ Trúc Thông hàng ngày phải chống chọi với bệnh tật và rèn luyện lại trí nhớ.


Nhà thơ Trúc Thông là vậy, trong ký ức của nhiều bạn bè văn chương, ông là một người luôn trân trọng cái thanh tao của một thi sĩ. Ông kỹ tính trong thơ mà cũng kỹ tính cả trong cuộc đời. Nhà thơ Thanh Thảo từng kể: “Anh có thể nói về thơ cả ngày này sang ngày khác, với tất cả các bạn bè yêu thơ. Chúng tôi cứ đạp xe thong thả khắp phố phường Hà Nội trong đêm (hồi đó Hà Nội còn rất hẹp), và nói đủ chuyện về thơ, nhất là những chuyện thuộc về “bếp núc” của thơ. Trúc Thông hồi đại học học trên tôi một khóa. Hồi ấy trong khi chúng tôi còn mải lo kiếm cái gì cỡ như… khoai lang hay củ mì để nhét vào bụng, thì Trúc Thông thỉnh thoảng đi ngang qua lớp tôi như một bậc thi sĩ - thiền sư, miệng lẩm nhẩm đọc thơ.

 

Chúng tôi khâm phục lắm”. Nhà thơ Vũ Quần Phương kể: “Trúc Thông luôn biến những cái nhược điểm thành những điều rất đáng yêu. Bà mẹ sai anh gánh nồi cám lợn ra cánh đồng ngoài đê, vì nhà anh gần bờ sông, tăng gia sản xuất luôn ngoài đó, chính là nền tảng để anh có bài thơ “Bờ sông vẫn gió” sau này, thì Trúc Thông luôn gánh với tư thế là ông Nguyễn Du đi thực tế chứ không phải là một người đi nuôi lợn”.


Chăm chút cho sáng tạo


Hồi Trúc Thông 15 tuổi, thầy giáo dạy tiếng Pháp của ông thường bảo Trúc Thông đưa thơ cho thầy đọc. Có lần thầy gọi Trúc Thông lại xoa đầu bảo "cũng được đấy". Thay vì lời cảm ơn, không hiểu sao cậu bé Trúc Thông hồi ấy lại bực bội và tủi thân vì cái xoa đầu của ông giáo. Trong ý thức của mình, cậu nghĩ mình sẽ phải cố gắng để ông giáo không xoa đầu mình được nữa. Rồi sau này, một lần nữa lòng tự trọng của ông lại được rung lên khi một người bạn thơ tuyên bố: "Tôi thấy anh cứ làm, cọc cạch đến cuối đời cũng in được một tập!". Mặc dù rất bực, nhưng Trúc Thông không nói gì, chỉ biết ngấm ngầm mà chăm chút cho sáng tạo. Ông nói: "Chẳng hiểu sao thời đó mình lại bị "ghét" đến vậy, không được in mặc dù thơ không phải là loại bỏ đi”.


Rồi đất trời cũng run rủi cho ông có một tác phẩm "để đời" là bài thơ "Bờ sông vẫn gió". Bài thơ viết năm 1983. Bài "Bờ sông vẫn gió" được viết trong một chuyến đi thực tế. Ngày đó mẹ ông chưa mất nhưng cụ ốm yếu lắm. Nhà thơ hay nghĩ về cụ và trong một lần khi niềm xúc cảm mãnh liệt về mẹ và dòng sông Châu ùa đến bất chợt, ông đã viết bài thơ đó. Bài thơ không phải sửa một câu nào cho tới lúc nó được xuất bản, trong đó những câu thơ đầu tiên cứ như là của trời cho: “Lá ngô lay ở bờ sông/ Bờ sông vẫn gió người không thấy về/ Xin người hãy trở về quê/ Một lần cuối... một lần về cuối thôi/ Về thương lại bến sông trôi/ Về buồn lại đã một thời tóc xanh/ Lệ xin giọt cuối để dành/ Trên phần mộ mẹ vương hình bóng cha/ Cây cau cũ, giại hiên nhà/ Còn nghe gió thổi sông xa một lần/ Con xin ngắn lại đường gần/ Một lần, rồi mẹ hãy dần dần đi…”.


Cả đời thơ Trúc Thông đến nay chỉ vọn vẹn có 4 tập với hơn trăm bài: "Chầm chậm tới mình (1985), "Maratong" (1993), "Một ngọn đèn xanh" (2000 - Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam) và "Vừa đi vừa ở". Đọc thơ của ông, nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo đã nhận xét: “Trúc Thông làm thơ như một người làm vườn chăm chút trồng tỉa từng cái cây của mình trong một vòng hàng rào dày kín. Những cây-bài-thơ của anh chậm chạp và chắc chắc vươn dần lên trong khu vườn rồi thỉnh thoảng nghe tỏa ra ngoài hàng rào dày kín kia một vài làn hương bí ẩn, là lạ, quyến rũ, nhưng người ta không dễ phân biệt được mùi hương của loài hoa gì.

 

Không nóng vội, Trúc Thông vẫn ngày ngày kiên trì chăm chút cho khu vườn của mình, để rồi đến một ngày, anh mở cổng vườn, mang theo một lẵng quả mà anh đã thận trọng chọn lựa, dành tặng cho chúng ta…”. Còn với nhà thơ Trúc Thông, nói về thơ, ông tự bạch: "Trước mỗi bài thơ định viết, tôi suy nghĩ nhiều lắm. Riêng với thơ tôi là người thận trọng, thận trọng ngay trong từng câu chữ. Tôi quan niệm rằng làm thơ tức là nhìn tạo vật, nhìn cuộc đời như lần đầu tiên nhìn thấy. Như một buổi sáng đầu tuần".

 

Kim cô Nương