Chuyển đổi năng lượng cảng biển đang trở thành yêu cầu tất yếu để Việt Nam duy trì vị thế trong chuỗi cung ứng toàn cầu. Tuy nhiên, trong bối cảnh TP Hồ Chí Minh dự kiến mở rộng thu phí hạ tầng cảng biển sau sáp nhập địa giới, chi phí logistics đang là mối quan tâm lớn của cộng đồng doanh nghiệp. Thực tế này đặt ra yêu cầu phải có lộ trình chuyển đổi xanh hài hòa lợi ích giữa Nhà nước, doanh nghiệp và xã hội.
Áp lực chuyển đổi xanh hệ thống cảng biển
Tại hội thảo “Chuyển đổi năng lượng cảng biển Việt Nam: Thách thức và hợp tác đa bên” vừa được tổ chức tại TP Hồ Chí Minh mới đây, các ý kiến đều thống nhất rằng, chuyển đổi xanh trong lĩnh vực cảng biển không còn là xu hướng tự nguyện mà đã trở thành điều kiện bắt buộc để duy trì khả năng tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu.
Chuyển đổi xanh cảng biển là xu hướng tất yếu. Ảnh minh họa
Từ góc độ cơ quan quản lý, ông Hoàng Hồng Giang, Phó Cục trưởng Cục Hàng hải và Đường thủy Việt Nam cho rằng, Việt Nam đang đứng trước lựa chọn mang tính quyết định. Nếu không sớm chuẩn hóa và nâng cấp hệ thống cảng theo hướng xanh hơn, nguy cơ bị loại khỏi các chuỗi logistics quốc tế là hiện hữu. Theo ông Giang, việc xây dựng tiêu chuẩn cảng xanh và hệ thống chia sẻ dữ liệu dùng chung giữa các bên liên quan là nền tảng để tránh phát triển manh mún, thiếu đồng bộ .
Tuy nhiên, đại diện cơ quan quản lý cũng thừa nhận, chuyển đổi năng lượng cảng biển là bài toán khó đối với một nền kinh tế đang phát triển. Hạ tầng năng lượng chưa đồng bộ, chi phí đầu tư lớn và thời gian hoàn vốn dài khiến việc triển khai cần được cân nhắc thận trọng, tránh tạo cú sốc chi phí cho nền kinh tế.
Ở góc độ nghiên cứu, Tiến sĩ Nguyễn Sơn, giảng viên ngành Quản lý chuỗi cung ứng và logistics Đại học RMIT Việt Nam cho rằng, vấn đề cốt lõi không nằm ở công nghệ mà ở quản trị. Theo ông Sơn, nếu không có cơ chế phối hợp rõ ràng giữa cơ quan quản lý trung ương, chính quyền địa phương và doanh nghiệp khai thác cảng, quá trình chuyển đổi rất dễ rơi vào tình trạng “mỗi nơi làm một kiểu”, vừa tốn kém vừa kém hiệu quả.
Ông Sơn nhấn mạnh, các mục tiêu chiến lược về giảm phát thải cần được giữ ổn định và minh bạch, nhưng cách triển khai phải linh hoạt theo điều kiện từng vùng, từng cụm cảng. “Chuyển đổi xanh không thể áp dụng một công thức chung cho tất cả, nhất là với hệ thống cảng biển có mức độ phát triển rất khác nhau như ở Việt Nam”, ông Sơn nói.
Từ những góc nhìn này, có thể thấy Nhà nước đang giữ vai trò định hướng và điều phối, nhưng cũng cần tính toán kỹ để không đẩy toàn bộ chi phí và rủi ro chuyển đổi sang khu vực doanh nghiệp - lực lượng trực tiếp vận hành cảng và logistics.
Khi chi phí logistics trở thành rào cản
Trong khi yêu cầu chuyển đổi xanh ngày càng rõ ràng, cộng đồng doanh nghiệp logistics lại đang đối diện áp lực lớn về chi phí. Đề xuất mở rộng thu phí hạ tầng cảng biển tại TP Hồ Chí Minh sau sáp nhập với Bình Dương và Bà Rịa - Vũng Tàu đã trở thành tâm điểm tranh luận.
Để chuyển đổi xanh cảng biển cần chi phí rất lớn. Ảnh minh họa
Theo dự thảo, tổng số thu phí hạ tầng cảng biển dự kiến tăng từ khoảng 2.100 tỷ đồng/năm lên gần 3.500 tỷ đồng/năm. Nhiều hiệp hội ngành nghề cho rằng, mức tăng này sẽ tác động trực tiếp đến chi phí logistics, vốn đã ở mức cao so với khu vực .
Từ thực tiễn vận hành, ông Trương Nguyên Linh, Phó Tổng giám đốc cảng VICT cho biết, các doanh nghiệp khai thác cảng đang phải duy trì hoạt động liên tục trong khi chuẩn bị cho chuyển đổi xanh. “Hạ tầng cảng hiện hữu, nhất là các cảng lâu đời không thể nâng cấp trong một sớm một chiều. Nếu chi phí đầu vào tăng thêm, áp lực tài chính sẽ rất lớn”, ông Linh chia sẻ.
Ở quy mô hệ thống, Đại tá Bùi Văn Quỳ, Phó Chủ tịch Hiệp hội Cảng biển Việt Nam, Phó Tổng giám đốc Tổng công ty Tân Cảng Sài Gòn cho rằng, để cạnh tranh với các cảng trong khu vực, Việt Nam cần chuyển đổi đồng thời cả hệ sinh thái: Số hóa, xanh hóa và cải cách thủ tục. Tuy nhiên, ông cũng nhấn mạnh, nếu chi phí logistics bị đẩy lên quá cao, lợi thế cạnh tranh của cảng biển Việt Nam sẽ bị bào mòn.
Đại diện doanh nghiệp logistics GIL, ông Nguyễn Huy Đức nhận định, nhiều doanh nghiệp nhỏ đang rất cần các mô hình chuyển đổi mẫu và sự dẫn dắt chính sách. Theo ông Đức, doanh nghiệp không phản đối đầu tư hạ tầng hay chuyển đổi xanh, nhưng cần thấy rõ lộ trình và hiệu quả sử dụng nguồn thu, tránh tình trạng “đóng phí trước, hiệu quả tính sau”.
Các hiệp hội như Hiệp hội Logistics và Cảng biển Bà Rịa - Vũng Tàu, Hiệp hội Đại lý, môi giới và dịch vụ hàng hải Việt Nam (VISABA) cũng bày tỏ lo ngại việc mở rộng thu phí có thể làm phát sinh chi phí chồng lấn, đặc biệt với hàng hóa vận chuyển bằng đường thủy nội địa, phương thức đang được khuyến khích để giảm phát thải.
Ở chiều ngược lại, chính quyền địa phương cho rằng thu phí hạ tầng là công cụ quan trọng để tái đầu tư giao thông, giảm ùn tắc và nâng cao năng lực logistics về dài hạn. Bài toán đặt ra là làm sao để chính sách thu phí được thiết kế minh bạch, công bằng và gắn chặt với các dự án hạ tầng cụ thể, từ đó tạo được sự đồng thuận.
Các chuyên gia cho rằng, chuyển đổi năng lượng cảng biển chỉ có thể thành công khi ba trụ cột gồm: Nhà nước, doanh nghiệp và giới chuyên gia cùng tham gia, chia sẻ trách nhiệm. Thiếu sự cân bằng này, mục tiêu cảng biển xanh rất khó trở thành hiện thực bền vững.