TS. Tạ Đình Thi, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội, Đại biểu Quốc hội khóa XV đề xuất, Việt Nam cần có thêm giải pháp mang tính đột phá, tháo gỡ các điểm nghẽn và rào cản trong huy động nguồn lực đầu tư cho phát triển năng lượng.
Các tua bin điện gió hoạt động ở khu vực bờ biển phường Trường Long Hòa, tỉnh Vĩnh Long. Ảnh: Chương Đài/TTXVN
Đây sẽ là cơ sở để tạo lập nền tảng cho mục tiêu tăng trưởng cao và bền vững giai đoạn 2026 - 2030; đồng thời định hướng đến năm 2045. Ông Nguyễn Quốc Thập, Chủ tịch Hiệp hội dầu khí Việt Nam chia sẻ, mục tiêu chính sách ưu tiên của quốc gia trong việc thúc đẩy sản xuất, sử dụng năng lượng tái tạo góp phần quan trọng trong việc thực hiện cam kết của Việt Nam tại COP26 về phát thải ròng bằng "0" vào năm 2050.
Định hướng phát triển mạnh điện gió ngoài khơi kết hợp với các loại hình năng lượng tái tạo khác (điện mặt trời, điện gió trên bờ,...) để sản xuất năng lượng mới (hyro, amoniac xanh,...) phục vụ nhu cầu trong nước và xuất khẩu; bảo đảm an ninh quốc phòng, an ninh năng lượng và mang lại hiệu quả kinh tế cao, vẫn đảm bảo thân thiện môi trường, giảm phát thải...
Tuy nhiên, theo ông Nguyễn Quốc Thập, để giải quyết những tồn tại và phát triển mạnh các cơ hội, Việt Nam cần có đột phá về nhận thức và tư duy như: Đầu tư hạ tầng năng lượng cần được ứng xử như đầu tư hạ tầng giao thông; các hộ tiêu thụ và hộ tiêu dùng quan tâm tới năng lượng, ít phát thải, xanh, sạch, ổn định, cam kết dài hạn và sau cùng là giá; giá điện ưu đãi với các đối tượng chính sách, các đối tượng còn lại theo cơ chế thị trường.
“Đồng thời, cần quán triệt đầy đủ tinh thần các Nghị quyết của Bộ Chính trị gần đây để hoàn thiện cơ chế chính sách (các Bộ Luật và Nghị định) làm cơ sở cho việc hiện thực hóa Quy hoạch Điện 8 điều chỉnh và Quy hoạch năng lượng quốc gia; cần đầu tư các dự án tạo ra nguyên liệu đầu vào; các dự án nguồn điện và lưu trữ điện; dự án truyền tải đấu nối; xây dựng thị trường carbon và định giá khí thải; rà soát và hoàn thiện các quy hoạch tổng thể, đồng bộ sau điều chỉnh các đơn vị hành chính đối với các dự án năng lượng, đấu nối, truyền tải, và nhà máy/khu công nghiệp”, ông Nguyễn Quốc Thập đề xuất.
Tại Diễn đàn mới đây do Viện Kinh tế Việt Nam và Thế giới (Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam) tổ chức mới đây với chủ đề: “Đầu tư phát triển năng lượng hướng tới mục tiêu tăng trưởng kinh tế cao và bền vững”, PGS.TS Trần Đình Thiên, Thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách của Thủ tướng Chính phủ, nguyên Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam cho biết, Việt Nam đang đặt ra mục tiêu phát triển thêm khoảng 150.000 MW năng lượng tái tạo đến năm 2035.
“Với giả định trung bình 100 MW cho mỗi dự án, điều này đồng nghĩa với việc cần triển khai thêm 1.500 dự án trong vòng 10 năm. Để đạt mục tiêu tăng 150.000 MW, Việt Nam cần những thay đổi mạnh mẽ trong cơ chế, chính sách như đầu tư cơ sở hạ tầng và phát triển nguồn năng lượng”, PGS.TS Trần Đình Thiên cho biết.
Hiện, Chính phủ và Bộ Công Thương đã ban hành các quy định mới và khung giá các loại nguồn, kỳ vọng tạo được động lực huy động vốn đầu tư vào các nguồn điện lớn và năng lượng tái tạo. Tuy nhiên, do số lượng dự án cần thực hiện đầu tư rất lớn, nhất là vào các nguồn năng lượng tái tạo sẽ rất khó trong việc đấu thầu và chọn nhà thầu, trong khi nhân lực chuyên môn của các địa phương còn hạn chế.
Tổng vốn đầu tư phát triển nguồn và lưới điện truyền tải giai đoạn 2005 - 2030 tương đương 136,3 tỷ USD, trong đó, nguồn điện 118,2 tỷ USD, lưới điện truyền tải 18,1 tỷ USD, trung bình cần 24,78 tỷ USD/năm (riêng nguồn điện cần đầu tư 21,5 tỷ USD/năm).
Trong khi đó thách thức về thể chế và thời gian vẫn còn khá nhiều. Theo thống kê của Bộ Tài chính, Việt Nam có 2.212 dự án đang triển khai phải dừng lại do gặp vướng mắc thủ tục, pháp lý với tổng vốn đầu tư 6 triệu tỷ đồng, sử dụng gần 350.000 ha đất. Riêng Thành phố Hồ Chí Minh có 504 dự án bị đình trệ do vướng pháp lý, chiếm gần 7.179 ha đất với giá trị ước tính khoảng 7 triệu tỷ đồng.
TS Nguyễn Anh Tuấn, Trung tâm Đào tạo và Truyền thông, Ngân hàng BIDV cho rằng, hiện chính sách và pháp lý vẫn thiếu tính ổn định, cơ chế giá chưa rõ ràng. Cùng với đó là hạn chế về hạ tầng lưới điện, điểm nghẽn truyền tải và tích hợp năng lượng tái tạo. Các doanh nghiệp khó khăn trong tiếp cận vốn tín dụng do yêu cầu kỹ thuật chuyên sâu và nhu cầu vốn dài hạn. Bên cạnh đó, nhiều doanh nghiệp còn đối mặt với rủi ro và chi phí cao, đặc biệt cho các dự án quy mô lớn và công nghệ mới.
TS Nguyễn Anh Tuấn kiến nghị, Việt Nam cần hoàn thiện khung pháp lý và chính sách như: Ổn định cơ chế giá, Luật hóa năng lượng tái tạo, chính sách đất đai và thuế; phát triển hạ tầng lưới điện thông minh và hệ thống lưu trữ năng lượng; nâng cao năng lực thẩm định và quản lý dự án. Bài học kinh nghiệm từ các quốc gia và khu vực khác cũng là những kinh nghiệm để Việt Nam học hỏi. Cùng với đó là sự đa dạng hóa và tối ưu hóa các kênh huy động vốn như, phát triển trái phiếu xanh, khuyến khích tư nhân, hợp tác quốc tế, mô hình tài chính sáng tạo.
Một trong những nội dung được nhiều chuyên gia quan tâm là làm rõ vai trò của khu vực kinh tế tư nhân trong đầu tư năng lượng, nhất là năng lượng tái tạo và năng lượng mới. Đây được coi là yếu tố then chốt để thực hiện mục tiêu tăng trưởng nhanh, bền vững của Việt Nam trong giai đoạn tới.