Bộ Công Thương vừa ban hành Thông tư số 62 quy định phương pháp xác định, phê duyệt khung giá phát điện và giá dịch vụ phát điện đối với hệ thống pin lưu trữ năng lượng.
Ảnh minh họa: Ngọc Hà/TTXVN
Theo Thông tư số 62/2025/TT-BCT, Bộ Công Thương quy định cụ thể về hồ sơ, trình tự, phương pháp xác định và phê duyệt khung giá phát điện, phương pháp xác định giá dịch vụ phát điện của hệ thống pin lưu trữ năng lượng, đồng thời làm rõ các nội dung cơ bản của hợp đồng mua bán điện. Thông tư được ban hành trên cơ sở Luật Điện lực số 61/2024/QH15, Nghị định số 40/2025/NĐ-CP của Chính phủ và theo đề xuất của Cục trưởng Cục Điện lực.
Đối tượng áp dụng là các cơ quan, tổ chức, cá nhân sở hữu hệ thống pin lưu trữ năng lượng đấu nối vào hệ thống điện quốc gia ở cấp điện áp từ 110 kV trở lên, có công suất từ 10 MW và tham gia phục vụ nhu cầu của hệ thống điện quốc gia theo Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia giai đoạn 2021–2030, tầm nhìn đến năm 2050.
Thông tư cũng áp dụng đối với đơn vị vận hành hệ thống điện và thị trường điện, Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) cùng các tổ chức, cá nhân có liên quan.
Một số trường hợp không thuộc phạm vi áp dụng được nêu rõ, bao gồm hệ thống pin lưu trữ năng lượng kết hợp với nhà máy điện năng lượng tái tạo hoặc các hệ thống do Tổng công ty Điện lực đầu tư; các trường hợp này thực hiện theo quy định tại các thông tư chuyên ngành khác của Bộ Công Thương.
Ngoài ra, Thông tư dành riêng một điều để giải thích các thuật ngữ nhằm thống nhất cách hiểu và áp dụng trong quá trình thực hiện, như bên bán điện, bên mua điện, chủ đầu tư, điện năng giao nhận, đơn vị phát điện, đơn vị vận hành hệ thống điện và thị trường điện, hệ thống pin lưu trữ năng lượng, năm cơ sở, tổng công ty điện lực và tổng mức đầu tư.
Khung giá phát điện của hệ thống pin lưu trữ năng lượng được xác định trong khoảng từ mức tối thiểu bằng 0 đồng/kWh đến mức giá tối đa. Giá tối đa được tính toán trên cơ sở giá phát điện, bao gồm giá cố định bình quân, chi phí vận hành và bảo dưỡng cố định, cùng với giá biến đổi.
Thông tư quy định chi tiết công thức xác định giá phát điện. Trong đó, giá cố định bình quân là phần thu hồi chi phí đầu tư, được tính toán dựa trên chi phí vốn đầu tư quy đổi hằng năm và sản lượng điện năng giao nhận bình quân trong nhiều năm. Các thông số đầu vào như suất đầu tư, công suất lắp đặt, thời gian đời sống kinh tế, tỷ suất chiết khấu tài chính, lãi suất vốn vay và tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu đều được quy định cụ thể, có căn cứ rõ ràng.
Giá biến đổi được xác định nhằm bù đắp chi phí sạc điện, căn cứ vào đơn giá mua điện và hiệu suất của chu kỳ sạc – xả của hệ thống pin lưu trữ năng lượng. Trong khi đó, giá vận hành và bảo dưỡng cố định được xây dựng để thu hồi các chi phí sửa chữa lớn, sửa chữa nhỏ và các chi phí phát sinh trong quá trình vận hành.
Về trình tự phê duyệt khung giá phát điện, Thông tư nêu rõ: trong thời hạn 15 ngày kể từ khi báo cáo nghiên cứu khả thi đầu tư xây dựng được phê duyệt, chủ đầu tư phải hoàn thiện và gửi hồ sơ cho EVN. Trước ngày 1/11 hằng năm, EVN có trách nhiệm tính toán, lập hồ sơ đề nghị phê duyệt khung giá phát điện, trình Cục Điện lực thẩm định và báo cáo Bộ trưởng Bộ Công Thương xem xét, quyết định.
Song song với khung giá phát điện, Thông tư cũng quy định nguyên tắc và phương pháp xác định giá dịch vụ phát điện của hệ thống pin lưu trữ năng lượng. Giá dịch vụ phát điện được xây dựng trên cơ sở các chi phí hợp lý, hợp lệ trong toàn bộ vòng đời kinh tế của dự án, đồng thời bảo đảm tỷ suất sinh lời nội tại về tài chính không vượt quá 12%.
Giá dịch vụ phát điện bao gồm giá công suất năm cơ sở và giá điện năng năm cơ sở, chưa bao gồm thuế giá trị gia tăng và các loại thuế, phí theo quy định. Mức giá này khi so sánh với khung giá phát điện năm cơ sở không được vượt quá khung giá do Bộ trưởng Bộ Công Thương ban hành.
Thông tư cũng quy định chi tiết phương pháp xây dựng giá cố định bình quân, giá vận hành và bảo dưỡng cố định của năm cơ sở; nguyên tắc xác định giá cố định cho từng năm trong hợp đồng mua bán điện; nguyên tắc điều chỉnh giá dịch vụ phát điện hằng năm và phương pháp xác định giá hợp đồng mua bán điện tại thời điểm thanh toán.
Bên cạnh đó, trách nhiệm của Cục Điện lực, đơn vị vận hành hệ thống điện và thị trường điện, EVN, bên mua điện và bên bán điện được phân định rõ trong việc triển khai, đàm phán, thanh toán và điều chỉnh giá dịch vụ phát điện. Các bên có trách nhiệm cung cấp đầy đủ, chính xác hồ sơ, số liệu liên quan; phối hợp chặt chẽ trong quá trình thực hiện hợp đồng mua bán điện, bảo đảm vận hành an toàn, hiệu quả hệ thống điện quốc gia. Thông tư số 62/2025/TT-BCT chính thức có hiệu lực từ ngày 26/1/2026.