12:09 02/12/2025

Bí quyết ‘đánh thức’ làng bản thành điểm du lịch 'hot': Sức mạnh từ nội lực cộng đồng

Mô hình hỗ trợ du lịch cộng đồng dựa trên nội lực do Viện Phát triển du lịch Châu Á triển khai đang cho thấy huy động sức dân, phát huy giá trị văn hóa bản địa và tạo sinh kế bền vững. Phóng viên báo Tin tức và Dân tộc đã có cuộc trao đổi với ông Phạm Hải Quỳnh, Viện trưởng Viện phát triển du lịch Châu Á - ATI xung quanh chủ đề này.

Thời gian qua, AIT đã hỗ trợ các bản khu vực miền núi phát triển du lịch cộng đồng ra sao? Từ thực tế hỗ trợ, để phát triển du lịch cộng đồng, theo ông cần những yếu tố nào?

Viện phát triển du lịch Châu Á đến thời điểm hiện tại đã chính thức đồng hành và triển khai hơn 50 điểm và làng, từ tư vấn, đào tạo định hướng cho đến cầm tay chỉ việc. Viện phát triển du lịch Châu Á là đơn vị nghiên cứu và đi sâu vào các giải pháp hỗ trợ cộng đồng vì vậy chúng tôi thường đưa ra các giải pháp giúp cộng đồng phát triển sinh kế du lịch gắn liền với phát triển sinh kế bản địa.

Chú thích ảnh
Ông Phạm Hải Quỳnh hướng dẫn trang trí ẩm thực phục vụ khách du lịch.

Muốn có sự khác biệt cần nghiên cứu, phân tích sâu về giá trị văn hóa riêng biệt của từng đồng bào các dân tộc, nghiên cứu sâu về sinh kế bản địa và cảnh quan, điểm hút của thiên nhiên trong vùng để tìm thấy tiềm năng, tìm thấy điểm hút của bản làng. Từ đó đi đến định hướng triển khai các làng.

Trong các làng thì vai trò của cộng đồng muốn được làm du lịch đặt lên hàng đầu, vai trò của chính quyền địa phương sẵn sàng đồng hành từ sơ khai đến khi sản phẩm hoàn thành và phát triển từ đó lên kế hoạch phát triển du lịch cộng đồng từ nội lực cộng đồng và đây cũng là mấu chốt cũng như quá trình đưa cộng đồng vào tham gia du lịch một cách bền vững nhất.

Thưa ông, làm thế nào để người dân nhận thấy làm du lịch cộng đồng họ sẽ được hưởng lợi từ phát triển, từ đó tạo động lực cùng tham gia? Theo ông, khó nhất trong quá trình hỗ trợ từ một làng “tiềm năng” thành một điểm du lịch “hot” là gì?

Như chia sẻ ở trên muốn đưa cộng đồng vào thì ta cần bắt đầu từ cộng đồng, từ những gì mà cộng đồng đang có chứ không phải bắt đầu từ việc hô hào cộng đồng đi vay mượn để xây nhà, để đầu tư làm du lịch hay chờ nguồn lực từ nhà nước hỗ trợ rồi mới làm. Từ mong muốn đó, chúng tôi phối hợp cùng chính quyền địa phương dùng ngày công, dùng nội lực trong việc hỗ trợ thanh niên khởi nghiệp, phụ nữ khởi nghiệp để giúp nhau hoàn thiện sản phẩm, các mô hình hướng tới đạt chuẩn đón khách du lịch.

Thông qua việc song hành với chính quyền để đưa thanh niên hay phụ nữ đến hỗ trợ, các địa phương đã huy được được vài nghìn ngày công thay vì phải bỏ tiền ra thuê; được vài nghìn cây hoa của mọi người mang đến hỗ trợ thay vì chờ nguồn lực nhà nước hỗ trợ; được lượng truyền thông marketing 0 đồng để quảng bá điểm đến vô cùng lớn và quan trong hơn hết chúng tôi có được vài nghìn khách đầu tiên khi làng mới đang hoàn thiện và đó cũng là động lực là nguồn thu ban đầu để cộng đồng nhìn thấy quyền lợi, lợi ích của mình khi làm du lịch.

Chúng tôi bắt đầu xây dựng làng từ nội lực cộng đồng cho các bản làng ở Quảng Nam, Huế, Quảng Trị, Quảng Ninh, Ninh Thuận, Lâm Đồng, Hà Nội, Điện Biên, Lào Cai, Lai Châu… nhưng ấn tượng nhất chính là mô hình với Nà Sự, Điện Biên. Trong 6 ngày bản làng huy động được 3.726 ngày công, ngày đông nhất hơn 500 người đến hỗ trợ và chỉ trong 6 ngày chúng tôi đồng hành xây dựng thành công một bản làng du lịch cộng đồng.

Đến thời điểm hiện tại Nà Sự đã được sự chung tay của Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Điện Biên cũng như lãnh đạo tỉnh quan tâm đầu tư cho bản và họ đã từng bước khẳng định được mình. Gần đây nhất Viện phát triển du lịch Châu Á đang đi sâu vào tư vấn phát triển xanh, bền vững cho những ngôi làng trong vùng Công viên địa chất UNESCO Lạng Sơn và đã và đang hoàn thiện sản phẩm của 2 làng là Lân Nóng, Lạng Sơn và làng đá Thạnh Khuyên, Lạng Sơn.

Theo ông, việc triển khai, phổ biến chính sách về du lịch nông thôn, cộng đồng sao cho hiệu quả từ văn bản khô khan vào thực tế?

Cách phổ biến hiệu quả nhất là áp dụng phương pháp "học qua làm" và "thực tế hóa". Phương pháp phổ biến gắn liền với thực tiễn, thay vì nói về tiêu chuẩn, hãy cho bà con thấy một ví dụ thực tế như hỗ trợ một hộ gia đình tiên phong trong thôn, bản chỉnh trang nhà cửa, làm dịch vụ theo đúng tiêu chuẩn du lịch (sạch sẽ, thân thiện, có nhà vệ sinh đạt chuẩn).

Chú thích ảnh
Hướng dẫn cho người dân làm du lịch từ mô hình thực tế.

Đây sẽ là lớp học trực quan, tổ chức cho các hộ khác đến tham quan cùng hỗ trợ, học hỏi cách trang trí, cách sắp xếp giường chiếu, cách tính giá, và trực tiếp quan sát cách chủ nhà đón tiếp khách. Hỗ trợ nhóm phụ nữ tổ chức một bếp ăn hoặc khu vực chế biến ẩm thực phục vụ du khách, tuân thủ nghiêm ngặt quy tắc vệ sinh an toàn thực phẩm. Các thành viên khác sẽ học cách sơ chế, chế biến, bảo quản món ăn đặc sản đúng cách, đảm bảo vừa giữ được hương vị truyền thống, vừa an toàn cho du khách.

Dạy kỹ năng qua "trò chơi" và "giả định" biến kiến thức thành hoạt động tương tác, vui vẻ và dễ nhớ. Ví dụ chia bà con thành hai nhóm, một nhóm đóng vai khách du lịch, một nhóm đóng vai chủ nhà. Cho họ diễn lại tình huống đón khách, chỉ đường, giải quyết phàn nàn, hoặc giới thiệu về sản phẩm OCOP của địa phương. Sau đó, cùng nhau phân tích: "Làm thế nào để tốt hơn?".

Tổ chức một trò chơi để bà con tự đi tìm và nhận diện những nét độc đáo (trang phục, nghề truyền thống, cây thuốc, câu chuyện lịch sử) của bản mình mà du khách sẽ quan tâm. Điều này giúp họ khai thác tài nguyên có sẵn thay vì phải đầu tư lớn.

Đưa nội dung chính sách vào văn hóa truyền miệng, sáng tác bài hát, câu vè. Lồng ghép các nội dung quan trọng như "5 không" trong du lịch (không chặt phá rừng, không vứt rác, không nói thách,...) hoặc "5 có" (có nụ cười, có món ăn ngon, có phòng sạch,...) vào lời bài hát, điệu múa, câu vè đơn giản bằng tiếng dân tộc để dễ dàng thuộc và nhớ lâu.

Biến việc học thành lợi ích kinh tế ngay lập tức, mời các công ty lữ hành, các blogger du lịch đến trải nghiệm dịch vụ sau khi bà con đã được tập huấn. Sau đó bà con được thực hành với khách thật (có thể là trả phí hoặc miễn phí), nhận được phản hồi trực tiếp và nhìn thấy được doanh thu tiềm năng, tạo động lực mạnh mẽ để tiếp tục áp dụng.

Để kiến thức không còn là lý thuyết, cần phải "làm mẫu", "thực hành", "diễn giải bằng ngôn ngữ văn hóa", và "gắn liền với lợi ích kinh tế" của người dân.

Xin cảm ơn ông!

XM/Báo Tin tức và Dân tộc