Trong “cuộc chiến” ứng phó với tình trạng sạt lở bờ biển ở khu vực Duyên hải miền Trung hiện nay, một vấn đề nổi lên là các địa phương đều thiếu và yếu về hệ thống cơ sở dữ liệu quan trắc, đo đạc tình trạng biến đổi hình thái bờ biển. Trên cơ sở khoa học đó, các địa phương mới tìm ra được giải pháp căn cơ, đưa ra những quyết định lựa chọn biện pháp kỹ thuật phù hợp, mang lại hiệu quả trước mắt cũng như lâu dài.
Tuyến đê ngầm phá sóng tại biển Cửa Đại (Đà Nẵng) được xây dựng cách bờ khoảng 250m góp phần bảo vệ bờ biển. Ảnh: Đỗ Trưởng/TTXVN
Thiếu cơ sở dữ liệu
Với nhiều năm nghiên cứu về xói lở bờ biển ở Việt Nam, Giáo sư, Tiến sĩ Thiều Quang Tuấn (Trường Đại học Thuỷ lợi) nhận định, phòng chống xói lở bờ biển cần được thực hiện theo từng bước cẩn trọng như chữa bệnh. Bờ biển bị xói lở chỉ là biểu hiện bên ngoài lâm sàng và có thể gây ra bởi đa dạng các nguyên nhân khác nhau. Như vậy, việc nghiên cứu xác định chính xác nguyên nhân, cơ chế gây xói lở và từ đó đề xuất giải pháp phù hợp là rất quan trọng. Tuy nhiên để làm tốt điều này, việc theo dõi và giám sát các điều kiện biên thủy động lực cũng như là tình trạng bờ, bãi biển một cách thường xuyên, lâu dài và có tính hệ thống rất cần thiết nhưng vấn đề này vẫn đang bị bỏ ngỏ ở tất cả các địa phương có đường bờ biển trên cả nước hiện nay.
Theo quy hoạch, thành phố Đà Nẵng hướng đến xây dựng trở thành đô thị biển và trung tâm dịch vụ logistic sáng tạo mang tầm khu vực và quốc tế. Phó Chủ tịch UBND thành phố Đà Nẵng Lê Quang Nam cho biết, Đà Nẵng đang bước vào giai đoạn phát triển mới, với trụ cột là kinh tế biển, hướng ra biển. Tuy nhiên, với diễn biến của biến đổi khí hậu, sự biến đổi phức tạp của các bãi biển đang đặt ra nhiều thách thức đối với thành phố. Nếu muốn trở thành đô thị biển, thành phố phải quản lý tổng hợp vùng bờ bền vững và hiệu quả; trong đó, phải có công cụ giám sát; tuy nhiên đây đang là vấn đề thiếu và yếu của thành phố, làm hạn chế đến công tác hoạch định chính sách.
“Hiện nay, có nhiều giải pháp kỹ thuật nhưng lựa chọn như thế nào phù hợp và bền vững với Đà Nẵng là một câu chuyện. Những giải pháp can thiệp cứng ở mức độ nào đó đương nhiên sẽ ảnh hưởng đến khu vực khác, giải pháp mềm thì lựa chọn công nghệ nào phù hợp, đảm bảo khả năng đầu tư của thành phố. Đó là bài toán mà thành phố mong muốn các nhà khoa học hỗ trợ nghiên cứu, tham vấn cho địa phương”, ông Lê Quang Nam chia sẻ.
Tỉnh Quảng Ngãi cũng gặp nhiều khó khăn trong công tác điều tra, đánh giá diễn biến bùn cát, tác động của hoạt động nạo vét, khai thác cát, sỏi vùng cửa sông và các yếu tố thuỷ, hải văn dẫn đến sạt lở bờ biển do yêu cầu về chuyên môn sâu, thiếu các trạm thiết bị quan trắc chuyên dụng để quan trắc thường xuyên tạo cơ sở dữ liệu phục vụ nghiên cứu giải pháp.
Phó Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Ngãi, ông Trần Phước Hiền cho biết, ngoài việc đầu tư công trình khắc phục khẩn cấp để kịp thời bảo đảm an toàn tính mạng, tài sản của nhân dân và Nhà nước. Địa phương kiến nghị Bộ Nông nghiệp và Môi trường đề xuất Chính phủ xem xét, ban hành quy định về quản lý, khai thác và sử dụng kết cấu hạ tầng kè chống sạt lở bảo vệ bờ sông, bờ biển để địa phương có cơ sở triển khai thực hiện.
Đồng thời, hỗ trợ tỉnh trong hoạt động nghiên cứu, ứng dụng khoa học, công nghệ phục vụ phòng, chống sạt lở; đầu tư lắp đặt các trạm quan trắc chuyên dụng thường xuyên, xây dựng cơ sở dữ liệu về sạt lở, diễn biến đường bờ biển, đẩy nhanh việc nghiên cứu vật liệu xây dựng tiến tới không sử dụng cát để san lấp…
Kè mái nghiêng bê tông kết hợp mái bằng chống xâm thực tại phường Phan Thiết (Lâm Đồng). Ảnh: Nguyễn Thanh/TTXVN
Giáo sư, Tiến sĩ Lê Mạnh Hùng (Viện Khoa học Thủy lợi miền Nam) nhận định, nhìn chung các công trình kè bảo vệ bờ biển tỉnh Lâm Đồng đã xây dựng những năm gần đây đều phát huy tác dụng bảo vệ bờ trực tiếp. Tuy nhiên, chính những công trình đó đã làm thay đổi chế độ động lực vùng ven bờ, ít nhiều phá vỡ hình thái tự nhiên vùng ven bờ. Điều này dẫn tới xói lở, bồi lắng không kiểm soát được ở các khu vực lận cận, thể hiện rõ qua việc địa phương đã rất cố gắng, đầu tư nhiều nguồn lực nhưng diễn biến xói lở không suy giảm mà ngược lại càng ngày càng gia tăng kể cả về số lượng và quy mô.
Theo ông Nguyễn Hồng Hải, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Lâm Đồng, tỉnh mong muốn các chuyên gia, các nhà khoa học đầu ngành, đại diện lãnh đạo các trường đại học, các viện nghiên cứu… tìm ra giải pháp công trình bảo vệ bờ biển phù hợp trên cơ sở các nghiên cứu chuyên sâu. Thông qua đó giúp lãnh đạo tỉnh có thêm nhiều thông tin hữu ích làm cơ sở phục vụ công tác chỉ đạo, điều hành ứng phó với tình trạng sạt lở bờ biển trong thời gian tới.
Tiếp cận mới từ biển Cửa Đại
Bờ biển Cửa Đại (thành phố Đà Nẵng) từng được vinh danh là một trong những bãi biển đẹp nhất châu Á với bãi cát trắng mịn trải dài, nước biển trong vắt soi bóng những rặng dừa cao vút và từ đây có thể ngắm đảo Cù Lao Chàm ở nhiều thời điểm đẹp trong ngày. Tuy nhiên, bờ biển Cửa Đại đã thay đổi đột ngột, bị xói lở nghiêm trọng từ năm 2014, sóng biển liên tục xâm thực sâu hàng chục mét vào trong đất liền, tiến sát ngay các khu nghỉ dưỡng, trong đó một số biệt thự ở gần bờ biển bị sóng đánh sập.
Trước thực trạng trên, chính quyền địa phương đã nỗ lực triển khai nhiều giải pháp khẩn cấp trước mắt để ứng phó như đóng cọc, chèn bao cát, rọ đá, sau đó nhiều bao cát khổng lồ cũng xuất hiện dọc bờ biển Cửa Đại để giảm sức tàn phá của những con sóng đánh vào đất liền. Đồng hành với “cuộc chiến” này, các nhà khoa học trong nước và quốc tế đã hỗ trợ địa phương nghiên cứu đi tìm nguyên nhân và cơ chế xói lở cũng như tư vấn thực hiện những giải pháp trước mắt cũng như lâu dài nhằm từng bước ổn định đường bờ biển.
Năm 2016, Dự án “Nghiên cứu về quá trình xói lở bờ biển Hội An và đề xuất các giải pháp bảo vệ bờ biển một cách bền vững” do Cơ quan Phát triển Pháp (AFD) tài trợ 300.000 Euro cùng với 200.000 Euro của địa phương đã được nhóm các nhà khoa học trong và ngoài nước triển khai thực hiện, kết thúc vào năm 2017. Đây là cột mốc quan trọng, tạo cơ sở khoa học để địa phương triển khai các dự án ứng phó phù hợp và đang mang lại hiệu quả bước đầu, nhiều bãi tắm đẹp đang dần được phục hồi.
Kết quả của dự án nghiên cứu đã chỉ ra bốn nguyên nhân của tình trạng xói lở bờ biển Cửa Đại - Hội An gồm, thiếu hụt trầm tích ở vùng biển; sự thay đổi của sóng, xác suất xuất hiện sóng lớn tăng trong những năm gần đây, hướng sóng vuông góc với đường bờ biển vào mùa Đông; dòng chảy dọc bờ và vận chuyến trầm tích dọc bờ; xây dựng hệ thống bảo vệ bờ biển của chủ khu nghỉ dưỡng (hoặc thậm chí của chính quyền địa phương) đã gây ra quá trình xói lở ở các khu vực lân cận…
Từ đó, giải pháp tổng thể được đưa ra là làm đê ngầm phá sóng cách bờ khoảng 250m và nuôi bãi cát, đây là giải pháp mới, triển khai quy mô lớn đầu tiên ở dọc bờ biển miền Trung. Phía bờ, các chuyên gia tư vấn không can thiệp công trình cứng, kể cả làm đường giao thông trên mặt cát, chỉ đổ cát vào nuôi bãi và trồng cây xanh.
Năm 2020, từ nguồn vốn đầu tư công, thành phố Đà Nẵng đã thi công và hoàn thành tuyến đê ngầm đầu tiên phía ngoài biển Cửa Đại dài 220m để giảm sóng. Công trình này là bước thử nghiệm đầu tiên đối với giải pháp căn cơ bảo vệ bền vững bờ biển Cửa Đại được áp dụng cho đến hiện nay. Giai đoạn 2021-2022, tuyến đê ngầm dài hơn 1,7 km tiếp tục được hoàn thành, giai đoạn 2023-2024 tuyến đê ngầm kéo dài thêm 550m.
Từ đầu năm 2025 đến nay, Dự án “Chống xói lở và bảo vệ bền vững bờ biển Hội An” với tổng mức đầu tư 42 triệu Euro, tương đương hơn 982 tỷ đồng, do Cơ quan Phát triển Pháp (AFD) và Liên minh châu Âu (EU) tài trợ đang được triển khai với chiều dài gần 3,4 km; trong đó tuyến đê ngầm giảm sóng có tổng chiều dài hơn 2 km được làm ngắt quãng.
Thi công đê ngầm phá sóng phía ngoài biển Cửa Đại, thành phố Đà Nẵng. Ảnh: TTXVN phát
Ông Lê Tự Khánh, Trưởng phòng Quản lý dự án II (Ban Quản lý Dự án đầu tư xây dựng Quảng Nam, thành phố Đà Nẵng) cho biết, tiến độ hiện nay, các đơn vị thi công đã hoàn thành 50% khối lượng đê ngầm. Khác với các dự án trước đây làm đê ngầm liền mạch, dự án này các đê ngầm được thiết kế ngắt quãng nhằm tạo thuận lợi cho tàu thuyền ra vào, cũng như quá trình bồi lắng cát tự nhiên vào phía bờ.
Đối với giải pháp nuôi bãi gồm hai phần: Bãi cạn có cao trình 2m và bề rộng bãi khoảng 40m; Bãi tắm là phần bãi nghiêng ngập nước kéo dài từ biên ngoài bãi cạn tới vị trí đê ngầm. Với độ dốc bãi thiết kế, đảm bảo có không gian tắm biển ngay khi mực nước biển thấp tại thời điểm triều kiệt. Dự kiến khi dự án hoàn thành vào cuối năm 2026 sẽ tạo ra một chỉnh thể hoàn chỉnh bảo vệ bờ biển Cửa Đại bền vững.
Do khu vực bờ biển Cửa Đại là vùng đệm của Khu dự trữ sinh quyển thế giới Cù Lao Chàm nên việc xây dựng đê ngầm giảm sóng ngoài biển được các chuyên gia trong nước và quốc tế thẩm định kỹ các tác động về môi trường trong quá trình thi công cũng như vận hành tuyến đê. Quá trình nuôi bãi, tái tạo bãi tắm đòi hỏi lượng cát bơm vào bờ lớn, thuận lợi là khu vực cửa biển Cửa Đại có đảo nổi mới hình thành và dự kiến sẽ cung cấp khoảng 1,4 triệu m3 cát cho quá trình này.
Theo ông Lê Đình Sơn, Cán bộ quản lý dự án (Ban Quản lý Dự án đầu tư xây dựng Quảng Nam, thành phố Đà Nẵng) cho biết, điểm đặc biệt trong các bãi nuôi cát của dự án có bãi C7 dài 960m nằm ở phường Hội An Tây được gọi là bãi nuôi “hy sinh”. Phía ngoài bãi C7 không thiết kế làm đê ngầm phá sóng, chỉ sử dụng biện pháp bơm cát để nuôi bãi phía bờ và cần có thời gian để phục hồi. Theo tính toán của các chuyên gia nước ngoài, thời gian đầu bãi nuôi C7 sẽ tiếp tục bị sạt lở và phải liên tục bổ sung bơm cát nhưng khi đến một thời điểm nhất định sóng biển sẽ tự bồi cát trở lại tạo bãi tại đây.
Theo nhiều chuyên gia, với việc nghiên cứu thấu đáo, tìm ra nguyên nhân và cơ chế gây xói lở bãi biển, trước khi triển khai cụm dự án tổng thể để xử lý tình trạng sạt lở bãi biển Cửa Đại đang mang lại kết quả bước đầu rõ rệt, các bãi tắm dần được phục hồi. Đây là giải pháp công trình mà các tỉnh, thành phố trong khu vực miền Trung có thể tham khảo hữu ích trong “cuộc chiến” chống sạt lở bờ biển hiện nay.