Những người đàn bà mưu sinh kề với tử thần

Dưới lớp đất sâu, cơ hội mưu sinh của những người đàn bà không chồng khốn khó thuộc hai tổ dân phố 11, 12 (phường Vũ Bài, thị xã Hương Thủy, Thừa Thiên - Huế) vẫn còn đầy. Bất chấp những hiểm nguy đến tính mạng, họ vẫn ngày ngày rà phế liệu, tìm bom mìn còn sót lại để mang về bán đồng nát kiếm tiền nuôi con.

 

Những mất mát của cuộc mưu sinh nhọc nhằn


Hơn hai mươi năm qua, những người phụ nữ ấy vẫn sống cuộc sống bấp bênh cùng sự mưu sinh trong nỗi cơ cực, mà họ vẫn gọi là nghề “giỡn mặt với tử thần”. Trong ngôi làng nhỏ nằm lọt thỏm bên trong vườn tràm, thiếu vắng bóng dáng đàn ông vì đã không may tử nạn vì bom mìn, chỉ thấy những người phụ nữ cặm cụi và buồn buồn, trong đó có nhiều người mất chân tay, mất đi một phần thân thể của mình sau những tiếng nổ hậu chiến tranh, cũng chỉ vì mưu sinh. Hầu hết phụ nữ trong làng này làm nghề rà phế liệu mưu sinh. Phế liệu lại chủ yếu là những bom mìn còn sót lại sau chiến tranh vì trước đây khu vực này là nơi giao chiến trong cuộc tổng tấn công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968. Có biết bao cái chết thương tâm, biết bao vụ nổ đã xảy ra, nhưng những người đàn bà này vẫn cắn răng đối mặt, nếu không thì chỉ chết đói.

Chị Muông sau một lần suýt chết vẫn đánh vật với cuộc mưu sinh.


Công cụ kiếm cơm của họ chỉ là những chiếc máy rà kim loại được cải tạo từ nhiều dụng cụ khác nhau, độ chính xác chỉ rất thấp. Chính vì thế nhiều lúc có những quả bom bi, mìn cóc còn sót lại không được máy báo, người rà dẫm vào và để lại hậu quả vô cùng đáng tiếc. Chị Đào Thị Huệ (38 tuổi) kể về cuộc sống cơ cực của gia đình mình: Nhà nghèo, không có đất canh tác nên gia đình chị đã gắn bó với nghề tìm phế liệu này. Gần 10 năm qua, chồng chị đã đi các nơi để tìm những mảnh vụn của bom đạn còn sót lại sau chiến tranh. Sau nhiều lần chết hụt cuối năm ngoái, chồng chị đã tử vong vì mìn phát nổ. Ở khu phố 2 này, có rất nhiều người như gia đình chị. Năm ngoái, chị Dương Thị Thúy cũng vướng phải bom bi trên đường đi tìm phế liệu, mất cả đôi chân. Lúc đó, chị Thúy đã có hai con.

 

Những tháng ngày sau đó, gánh nặng lại đè lên đôi vai gầy của những đứa trẻ không cha, mẹ thương tật. Cũng như chị Thúy, hoàn cảnh của chị Thuận, chị Muông, chị Tươi và nhiều người đàn bà khác cũng đang đánh vật với cuộc sống. “Ngày khá thì thu nhập được trên 50.000 đồng, ngày đen đủi thì chỉ được vài chục ngàn đồng thôi. Tìm phế liệu ở công trình xây dựng thì không sợ gặp phải bom mìn nhưng được ít lắm, nên đánh liều tìm ở các cánh đồng. Nhưng sợ lắm. Khi máy phát hiện ra kim loại là mừng, cật lực đào, chứ đâu biết mình có gặp phải điều xui xẻo hay không! Sáng đi, tối về mà mình còn nguyên vẹn là mừng rồi!” chị Mừng ngồi co ro dưới hiên nhà tâm sự. Vừa ngồi trò chuyện, tôi quan sát thấy lòng bàn chân, bàn tay của các chị trắng toát, lớp da bị “quét” thành những rãnh sâu hoắm chạy dài. Ở đây, cứ 10 người thì cả 10 đều bị bệnh về da, chân tay, có lúc đến mắt cũng hỏng… nguyên nhân là do đào phải mìn.


Với đôi chân tập tễnh là hậu quả của tai nạn bom mìn, chị Nguyễn Thị Thuận kể lại, cách đây hơn 10 năm, trong một lần đi rà phế liệu tại đồi tràm, chị Thuận giẫm lên một quả bom bi. Chị Thuận là một trong những người sáng lập ra xóm và đã duy trì hơn 18 năm nay. Hồi đầu chỉ có ba, bốn người đến sinh sống rồi dần dần phát triển thành thôn xóm. Những người phụ nữ ở đây hầu hết đều là do lỡ dở trong chuyện tình cảm. Bên cạnh đó cũng có nhiều người kém duyên, liều tìm đến đây xin những người đàn ông đứa con để dựa dẫm về già. Sau khi những người đàn ông ấy ra đi, các chị tìm về đây sinh sống. Họ quần tụ với nhau và mảnh đất này đã trở thành chốn nương náu của nhiều hoàn cảnh éo le. Hàng ngày, cứ vào mỗi buổi sáng, những người phụ nữ lại lẫn trong đám sương sớm đi ra bãi rác lượm ve chai, phế liệu để kiếm tiền đắp đổi cuộc sống hàng ngày.


Chỉ trong thời gian ngắn, ở đây đã có hơn 20 người phải bỏ mạng và hơn 15 người bị thương khi đi tìm phế liệu. Xót xa lắm nhưng biết làm sao được khi những con người này đều là những hộ nghèo. Những đứa trẻ ở “xóm không chồng” lớn lên sớm phải gắn bó với cuộc đời vất vả. Hàng ngày, chúng theo mẹ đi lượm lặt ve chai, chỉ số ít cháu nhỏ trong gia đình được đến lớp. Chiều muộn, sau một ngày lăn lộn khắp các bãi rác, chúng trở về quây quần bên nhau, tranh thủ chơi đùa trước khi màn đêm buông xuống. Lúc chúng tôi ghé đến xóm nhỏ này, bọn trẻ đang nô nức chạy theo cánh diều giấy. Sau ít phút ngơ ngác thấy người lạ ghé thăm, chúng chạy ùa đến, vây lấy chúng tôi. Đứa nào đứa đấy cởi trần tồng ngồng. Có cô bé lém lỉnh, mạnh dạn níu tay tôi: “Chú ơi, chụp cho cháu vài kiểu ảnh để cháu khoe với mẹ!” nghe sao mà xót xa.


Mong điều gì đến cho xóm nghèo


Trên những khoảnh đất trống, có chỗ còn cắm những tấm bảng báo hiệu khu vực nguy hiểm vẫn thấy thấp thoáng một vài người phụ nữ đang cặm cụi rà phế liệu. Cái nghèo khó, nhọc nhằn bám riết trên khuôn mặt đen sạm của những người phụ nữ. Ở đây, mỗi ngôi nhà một hoàn cảnh. Tuy nhiên, những người phụ nữ có một điểm chung là vừa phải làm mẹ, vừa gánh trách nhiệm làm cha. Trong những ngôi nhà nghèo nàn, bởi gọi là nhà cho đỡ chạnh lòng chứ thực ra đó là những chiếc chòi tranh, vách đất. Trong nhà chẳng có gì đáng giá ngoài chiếc giường gỗ cũ kỹ và chiếc bàn xập xệ. Có nhà vách tường được làm bằng những tấm bạt rách nát, nhìn thấu vào trong.


Không chỉ người lớn, mà nhiều đứa trẻ trong làng cũng đang “nối nghiệp” các mẹ, các cô. Ngoài giờ học, chúng lại mỗi đứa một bao tải, một gậy rà ra đồng. Một cậu bé buồn buồn: “Cháu mần nghề ni đã gần hai năm rồi, cực lắm chú à! Mỗi khi nghe tiếng nổ sợ mất hồn nhưng trời nắng, trời mưa gì cũng phải đi mần, không mần thì không có cơm gạo mà ăn, mà nuôi mẹ!”. Có lẽ “kỷ lục” về việc học hành ở đây là một cô bé lên được Trung học cơ sở, sau đó chẳng bao lâu cũng nghỉ học. Còn những đứa trẻ khác, biết đến con chữ, phép tính đã là may mắn lắm. Chị Thúy cho biết, trước đây cũng có lớp học tình thương của cô giáo Ngọc. Lúc ấy, những đứa trẻ trong xóm rất chịu khó đến lớp. Nhưng khi cô giáo Ngọc tuổi già sức yếu, không dạy được nữa thì những đứa trẻ cũng thất học. Nhiều lúc các bà mẹ khóc thầm vì nghĩ tội cho những đứa trẻ, nghĩ đến tương lai mịt mờ phía trước. Tuy nhiên, cuộc sống quá khó khăn, họ đành buông theo số phận.


Có thể đâu đó dưới lớp đất kia, những cơ hội đổi miếng cơm manh áo của họ vẫn đang nằm lẩn khuất, cùng với đó là những ám ảnh về cái chết và thương tật nhưng vì cuộc mưu sinh cơ cực họ vẫn chấp nhận phải đánh đổi bao mồ hôi công sức, có lúc cả tính mạng của mình để sống qua ngày. Nhưng những người làm nghề rà phế liệu vẫn bất chấp nguy hiểm, đánh cược sinh mạng mình để nuôi sống bản thân và gia đình. Với họ, còn có niềm hy vọng được thắp lên mỗi ngày: Biết đâu bữa nay “trúng” ổ kim loại ngon bán được nhiều tiền hơn! Nhưng lúc chia tay các chị, bỗng có một tiếng nổ vang lên từ phía bên kia, thấy các chị hộc tốc chạy ra, thảng thốt, lo lắng mà tôi cũng nát lòng. Chiến tranh đã qua đi gần 40 năm, thế nhưng trong sâu thẳm của những người mẹ này, nỗi ám ảnh về bom đạn đến bây giờ vẫn còn chưa dứt.


Bài và ảnh: Gia Ly - Đức Bảo

Chia sẻ:

doanh nghiệp - Sản phẩm - Dịch vụ Thông cáo báo chí Rao vặt

Các đơn vị thông tin của TTXVN