Hiện nay, nông sản Việt Nam đã có mặt trên 196 quốc gia và vùng lãnh thổ, đứng thứ 2 Đông Nam Á và đứng thứ 15 thế giới. Xuất khẩu nông sản của Việt Nam tiếp tục ghi nhận nhiều điểm nổi bật, đặc biệt là sự tăng trưởng giá trị xuất khẩu chủ yếu đến từ sự tăng giá bán.
Những bước chuyển mình
Sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, ngày 14 tháng 11 năm 1945, Hội đồng Chính phủ đã quyết nghị thành lập Bộ Canh nông theo đề nghị của Chủ tịch Hồ Chí Minh và cử ông Cù Huy Cận, Bộ trưởng không bộ trong Chính phủ lâm thời giữ chức Bộ trưởng Bộ Canh nông. Bộ Canh nông có nhiệm vụ giải quyết nạn đói và soạn thảo một chương trình kiến thiết về kinh tế nông nghiệp và đặt những căn bản đầu tiên cho cuộc kiến thiết ấy. Ngày 08/5/1946 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 62 quy định các Nha thuộc Bộ Canh nông, trong đó có Nha Nông chính. Đây là tiền thân của Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật, thuộc Bộ Nông nghiệp và Môi trường ngày nay.
Từ nhiệm vụ “diệt giặc đói” sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám, ngày 02/9/1945, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời cho đến ngày nay, trải qua gần 80 năm hình thành và phát triển, Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật ngày nay đã có nhiều bước chuyển mình và có nhiều đóng góp quan trọng vào sự nghiệp giải phóng dân tộc, công cuộc đổi mới và phát triển kinh tế đất nước.
Sản phẩm tôm là 1 trong 7 sản phẩm, nhóm sản phẩm có giá trị xuất khẩu đạt trên 1 tỷ USD. Ảnh tư liệu: Vũ Sinh/TTXVN
Trong giai đoạn 2015 – 2025, cục diện phát triển toàn cầu có nhiều biến động sâu sắc. Tại Việt Nam, nhu cầu tăng tốc độ tăng trưởng kinh tế lên hai con số trong thời gian tới bắt đầu thúc đẩy quá trình phát triển công nghiệp hóa và đô thị hóa lên một tốc độ cao hơn, cùng với những tác động mạnh mẽ của quá trình hội nhập kinh tế sẽ làm gia tăng cạnh tranh tài nguyên với sản xuất nông nghiệp, đồng thời diễn ra những biến đổi to lớn về cơ cấu dân số chuyển sang sống ở đô thị, số lượng lớn lao động chuyển sang phi nông nghiệp, diện tích lớn đất đai sẽ rút ra khỏi sản xuất nông nghiệp, trong khi quá trình già hóa dân số diễn ra nhanh chóng…
Song song với tiến trình đó là cuộc cách mạng về tổ chức mở rộng quy mô địa bàn và nhiệm vụ cho cấp xã, phương; bỏ cấp huyện, quận và sáp nhập các tỉnh, thành; phối hợp các bộ, ngành và giảm bớt bộ máy quản lý, điều chỉnh hàng loạt luật lệ và chính sách trên quy mô toàn quốc trong một thời gian rất ngắn đang tạo ra những cơ hội và thách thức mới.
Để đáp ứng với bối cảnh đó một loạt chính sách mới đã được đưa ra: Luật Trồng trọt năm 2018 và Nghị định số 109/2018/NĐ-CP ngày 29/8/2019 về nông nghiệp hữu cơ tạo hành lang pháp lý cho phát triển sản xuất hữu cơ, nâng cao giá trị và khả năng xuất khẩu nông sản sang các thị trường khó tính. Đồng thời, Nghị định số 57/2018/NĐ-CP ngày 17/4/2018 về chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn đã góp phần thúc đẩy vai trò của doanh nghiệp trong chuỗi giá trị nông sản.
Đề án Tái cơ cấu ngành nông nghiệp do Thủ tướng Chính phủ ban hành theo Quyết định 899/QĐ-TTg ngày 10 tháng 06 năm 2013 tiếp tục được triển khai, tập trung vào ba định hướng trọng tâm: khai thác và phát triển sản phẩm có lợi thế; phát triển chuỗi giá trị, gắn sản xuất với chế biến và thị trường; đổi mới thể chế sản xuất, kinh doanh. Trên thực tiễn, nhiều mô hình sản xuất mới xuất hiện, thu nhập của nông dân được cải thiện rõ rệt so với mô hình truyền thống.
Kết quả sau 5 năm thực hiện tái cơ cấu, sức sản xuất của ngành đã tăng rõ rệt. Nông nghiệp trở thành “trụ đỡ” của nền kinh tế. Tỷ trọng sản phẩm của ngành trồng trọt có lợi thế và thị trường cao như rau, hoa, quả nhiệt đới, cây công nghiệp dài ngày tăng nhanh. Kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản giai đoạn 2016 – 2020 đạt mức ấn tượng, đóng góp quan trọng cho tăng trưởng kinh tế. Hệ số ICOR của nông nghiệp trong giai đoạn này thấp hơn công nghiệp và dịch vụ (trừ các năm 2016, 2019), cho thấy hiệu quả đầu tư cao. Dù vốn đầu tư cho nông nghiệp chỉ chiếm 5,7 – 6,3% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, khu vực này vẫn tạo ra 14 – 16% GDP cả nước.
Đặc biệt, trong năm 2020, khi đại dịch COVID-19 khiến thương mại toàn cầu suy giảm, tuy nhiên xuất khẩu gạo vẫn lập kỷ lục về giá, đạt trung bình 500 USD/tấn; khối lượng giảm 3,5% nhưng giá trị tăng 9,3%, vượt mốc 3 tỷ USD. Tổng giá trị xuất khẩu nông sản đạt 41,2 tỷ USD, khẳng định vai trò then chốt của nông nghiệp trong ổn định kinh tế quốc gia.
Thể hiện vai trò chiến lược trong phát triển kinh tế đất nước
Năm 2022, Chính phủ đã phê duyệt Chiến lược phát triển nông nghiệp và nông thôn bền vững giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 (Quyết định số 150/QĐ-TTg), chuyển đổi nền nông nghiệp bền vững, hiệu quả hơn. Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII bàn hành Nghị quyết số 19-NQ/TW.
Cũng trong năm này, Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra Nghị quyết 19 “Về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045” khẳng định nông nghiệp, nông dân, nông thôn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Nông nghiệp là lợi thế, nền tảng bền vững của quốc gia, nông thôn là địa bàn phát triển kinh tế quan trọng, là không gian chính gắn với tài nguyên thiên nhiên, nền tảng văn hóa, xã hội, đảm bảo an ninh, quốc phòng của đất nước.
Nông dân là lực lượng lao động và nguồn tài nguyên con người quan trọng. Các vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn phải được giải quyết đồng bộ, gắn với quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Phát triển nông nghiệp trên quan điểm hướng tới nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại, nông dân văn minh.
Chế biến cá tra phi lê xuất khẩu tại nhà máy của Tập đoàn Sao Mai. Ảnh: Vũ Sinh/TTXVN
Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh (2021) định hướng cơ cấu lại kinh tế theo hướng hài hòa giữa tăng trưởng và BVMT, dựa trên khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, sử dụng tài nguyên hiệu quả, giảm phát thải, nâng cao năng lực cạnh tranh và chống chịu, đảm bảo tính bao trùm và công bằng xã hội, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững của Việt Nam và thế giới. Việt Nam đã đưa ra thông điệp tại Hội nghị thượng đỉnh về các hệ thống lương thực thực phẩm do Liên hợp quốc (UNFSS) tổ chức tháng 9 năm 2021: Việt Nam sẽ là nhà cung cấp lương thực, thực phẩm Minh bạch - Trách nhiệm - Bền vững.
Tiếp tục đổi mới tư duy lãnh đạo, Đảng ban hành 04 Nghị quyết quan trọng -“bốn đột phá” gồm: Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22 tháng 12 năm 2024 của Bộ Chính trị về thúc đẩy khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia; Nghị quyết 66-NQ/TW ngày 30 tháng 04 năm 2025 về đổi mới toàn diện công tác xây dựng, thi hành pháp luật; Nghị quyết 68-NQ/TW ngày 04 tháng 05 năm 2025 về phát triển mạnh mẽ khu vực kinh tế tư nhân; Nghị quyết số 59-NQ/TW ngày 29 tháng 7 năm 2025 về "Hội nhập quốc tế trong tình hình mới".
Nhờ những định hướng đúng đắn của Đảng, những chính sách linh hoạt, hiệu quả, kịp thời, sự điều hành quyết liệt của Chính phủ nên trong giai đoạn này kinh tế nói chung đã tăng trưởng mạnh và nông nghiệp nói riêng luôn là điểm sáng và thể hiện rõ là “trụ đỡ” của nền kinh tế. Cơ cấu lại ngành nông nghiệp đi vào thực chất, hiệu quả hơn; quy mô và trình độ sản xuất được nâng cao, chuyển mạnh sang sản xuất hàng hóa trên cơ sở phát huy các lợi thế từng vùng, miền, chuyển dịch theo hướng hiện đại.
Giai đoạn 2021-2024, GDP nông nghiệp tăng trưởng đạt 3,57%/năm. Năm 2024, tổng kim ngạch xuất khẩu NLTS đạt mức cao kỷ lục 62,4 tỷ USD, tăng 18,7% so với năm 2023. Trong đó kim ngạch xuất khẩu nông sản đạt 32,8 tỷ USD, tăng 22,4% so với năm 2023. Đáng chú ý, xuất khẩu rau quả đạt 7,2 tỷ USD, tăng 28,2% so với năm trước, với các sản phẩm nổi bật như sầu riêng, chuối, xoài và mít.
Kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản tháng 10 năm 2025 ước đạt 5,96 tỷ USD, tăng 6,3% so với tháng 10/2024; đưa tổng kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản 10 tháng đạt 58,13 tỷ USD, tăng 12,9% so với cùng kỳ năm 2024. Trong số đó, giá trị xuất khẩu các mặt hàng nông sản đạt 31,34 tỷ USD, tăng 15,5%; sản phẩm chăn nuôi đạt 512,9 triệu USD, tăng 19%; thủy sản đạt 9,31 tỷ USD, tăng 12,9%; lâm sản đạt 14,93 tỷ USD, tăng 5,8%...
Nông sản Việt Nam đã có mặt trên 196 quốc gia và vùng lãnh thổ, đứng thứ 2 Đông Nam Á và đứng thứ 15 thế giới. Xuất khẩu nông sản của Việt Nam tiếp tục ghi nhận nhiều điểm nổi bật, đặc biệt là sự tăng trưởng giá trị xuất khẩu chủ yếu đến từ sự tăng giá bán. Các mặt hàng như cà phê, hạt điều, hạt tiêu đều ghi nhận sự tăng giá xuất khẩu cao so với cùng kỳ năm 2024.
Nhìn lại chặng đường 80 năm xây dựng và phát triển đất nước, mỗi bước trưởng thành của ngành Trồng trọt và Bảo vệ thực vật đều gắn liền với đường lối đúng đắn của Đảng và chính sách hợp lý của Nhà nước. Khi chủ trương sáng suốt, kinh tế phát triển, đời sống nhân dân ấm no; khi có khó khăn, vấp váp, toàn ngành vẫn kiên cường vượt qua thử thách, khẳng định vai trò trụ cột của mình.
Trong thời kỳ cách mạng giành độc lập và kháng chiến bảo vệ Tổ quốc, ngành đã góp phần quan trọng bảo đảm an ninh lương thực, huy động sức người, sức của cho tiền tuyến. Trong công cuộc đổi mới, nông nghiệp tiên phong trong cải cách, phá rào tìm hướng đi mới, mở đường đưa đất nước vượt qua giai đoạn khó khăn nhất. Bước vào thời kỳ hội nhập, nông nghiệp đã đưa nông sản và lao động Việt Nam vươn ra khắp năm châu, nâng tầm vị thế đất nước trên trường quốc tế. Công tác bảo vệ thực vật, bảo vệ môi trường và quản lý tài nguyên luôn đồng hành, góp phần giữ gìn nền tảng sinh thái, phòng chống thiên tai, thích ứng biến đổi khí hậu, làm cho đất nước xanh hơn, sạch hơn, phát triển bền vững hơn.
Bằng những nỗ lực không ngừng, ngành Nông nghiệp và Phát triển nông thôn nói chung, Trồng trọt và Bảo vệ thực vật nói riêng, luôn thể hiện vai trò chiến lược: là lực lượng cách mạng to lớn trong dựng nước và giữ nước; là trụ đỡ vững chắc của nền kinh tế trong mọi biến động; là nền tảng cho giảm nghèo, ổn định chính trị xã hội; là tiên phong trong đổi mới chính sách, thể chế; là động lực quan trọng cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đô thị hóa đất nước.