09:12 02/09/2025

80 năm dựng xây và đổi mới - Bài 2: Từ đổi mới đến kỷ nguyên vươn mình

Đổi mới là quyết sách lịch sử đồng thời cũng là hành trình cải cách liên tục giúp Việt Nam chuyển mình mạnh mẽ từ nền kinh tế bao cấp đến quy mô GDP gần 500 tỷ USD, từ vị thế bị cô lập đến tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu.

Chú thích ảnh
Quý I/2025, khu vực công nghiệp và xây dựng, sản xuất công nghiệp đạt mức tăng 7,32%. Ảnh: Tuấn Anh/TTXVN

Phóng viên TTXVN ghi nhận ý kiến từ lãnh đạo bộ ngành và giới chuyên gia khẳng định: Bước vào kỷ nguyên mới, Việt Nam cần tiếp tục đổi mới thể chế, phát huy sức mạnh khoa học - công nghệ, kinh tế xanh và sáng tạo để hiện thực hóa khát vọng thịnh vượng, vươn lên nhóm nước phát triển có thu nhập cao.

Ông Nguyễn Văn Thắng, Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Tài chính: 

Tôi cho rằng đổi mới không chỉ là một quyết sách lịch sử mà còn là một quá trình cải cách không ngừng. Ngay từ Đại hội Đảng lần thứ VI, ngành tài chính đã tiên phong trong việc xóa bỏ bao cấp, xây dựng hệ thống thuế hiện đại, kiểm soát lạm phát, siết chặt kỷ luật tài chính. Bên canh đó, việc xây dựng các chiến lược phát triển, thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và cải cách thể chế kinh tế giúp Việt Nam từ chỗ bị cô lập, đã mở cửa nền kinh tế, từng bước hội nhập sâu rộng vào khu vực và thế giới.

Chú thích ảnh
Bộ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Văn Thắng. Ảnh: Dương Giang/TTXVN

Trong bối cảnh quốc tế đang rất phức tạp, tăng trưởng chậm lại, xung đột địa chính trị gia tăng, chuỗi cung ứng bị gián đoạn, ở trong nước, chúng ta cũng đang thực hiện những cải cách thể chế chưa từng có tiền lệ, Bộ Tài chính đã chủ động tham mưu chính sách điều hành linh hoạt, vừa kiểm soát rủi ro, vừa kích thích tăng trưởng.

Bộ Tài chính đã tích cực tham mưu, hoàn thiện thể chế, chính sách trong lĩnh vực tài chính; trong đó có những cơ chế chính sách tháo gỡ điểm nghẽn, tạo động lực để nền kinh tế cất cánh, như việc triển khai Nghị quyết số 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân, hay các cơ chế chính sách tài chính triển khai Nghị quyết số 57-NQ/TW về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.

Đây là những bước đi chiến lược nhằm chủ động tham mưu, điều hành nền kinh tế Việt Nam tiếp tục đà tăng trưởng tích cực, tạo đà và động lực cho tăng trưởng kinh tế trên 8% trong năm 2025 và mức 2 con số các năm tiếp theo.

GS.TS. Phạm Văn Đức, Nguyên Phó Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam: 

Việc Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII ban hành bốn nghị quyết chuyên đề - Nghị quyết 57 về phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số; Nghị quyết 59 về hội nhập quốc tế trong tình hình mới; Nghị quyết 66 về tiếp tục đổi mới xây dựng và tổ chức thi hành pháp luật và Nghị quyết 68 về phát triển kinh tế tư nhân đã cụ thể hóa tinh thần và mục tiêu của Đại hội XIII, nhất là khâu đột phá “hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển”.

Các nghị quyết này không chỉ xác định các lĩnh vực then chốt, tháo gỡ các điểm nghẽn, khơi thông nguồn lực và phát huy tiềm năng của các thành phần kinh tế mà còn tạo ra nền tảng vững chắc để Việt Nam hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế toàn cầu và chuyển mình trong kỷ nguyên mới. Đây là một bước ngoặt trong tư duy lãnh đạo, đánh dấu sự chuyển biến từ định hướng khái quát sang hành động thể chế cụ thể, có trọng tâm, trọng điểm.

Việc thực hiện thành công 4 nghị quyết sẽ tạo nền tảng vững chắc để Việt Nam đạt mục tiêu đến năm 2030 trở thành nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao và đến năm 2045 trở thành nước phát triển có thu nhập cao. Việt Nam cần chú trọng vào việc thể chế hóa, triển khai đồng bộ và hiệu quả các chương trình hành động, đồng thời chú trọng đến việc phát triển bền vững trong mọi lĩnh vực.

Theo đó, cần xây dựng các chương trình hành động cấp quốc gia, lồng ghép các mục tiêu của từng nghị quyết vào kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội hàng năm và 5 năm của từng bộ, ngành, địa phương. Đặc biệt, cần phân định rõ trách nhiệm chủ trì và phối hợp, gắn với cơ chế giám sát, đánh giá kết quả thực hiện theo tiêu chí đầu ra. Chỉ khi các nghị quyết này được triển khai mạnh mẽ, Việt Nam mới có thể vượt qua được những thách thức hiện tại và đạt được các mục tiêu phát triển quốc gia bền vững, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia và khẳng định vị thế trên trường quốc tế.

Cục trưởng Cục Thống kê Nguyễn Thị Hương: 

Chú thích ảnh
Cục trưởng Cục Thống kê Nguyễn Thị Hương. Ảnh: Ngọc Anh/TTXVN phát

Nhìn lại 80 năm phát triển, thành tựu lớn nhất của kinh tế nước ta là đã xây dựng thành công nền kinh tế độc lập tự chủ, từng bước vận hành theo cơ chế thị trường, hội nhập sâu rộng vào kinh tế toàn cầu, đạt được bước tiến dài về tăng trưởng. Sau 40 năm đổi mới Việt Nam trở thành một trong những nền kinh tế năng động, với quy mô GDP tăng vượt bậc. Năm 1986, quy mô GDP của nền kinh tế chỉ đạt 26,3 tỷ USD, đến năm 2024 ước đạt 476,3 tỷ USD, gấp 18,1 lần, thuộc 40 nền kinh tế lớn trên thế giới. Giá trị thương hiệu quốc gia năm 2024 đạt 507 tỷ USD, xếp thứ 32 trong 193 quốc gia. 

Đời sống nhân dân không ngừng được cải thiện và nâng cao; tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 58% năm 1993 xuống 2,3% năm 2024. Kinh tế Việt Nam từ chỗ không có tên trên bản đồ kinh tế thế giới đến vị trí, vai trò ngày càng cao trong nền kinh tế toàn cầu. Việt Nam đã thu hút được hàng trăm tỷ USD vốn FDI, trở thành một trong 20 quốc gia có quy mô thương mại hàng hóa quốc tế lớn nhất thế giới, là mắt xích quan trọng trong 17 hiệp định thương mại tự do, gắn kết kinh tế Việt Nam với hơn 60 nền kinh tế phát triển, chủ chốt trên toàn cầu. 

Yếu tố quyết định thành công chính là đường lối đổi mới đúng đắn, chiến lược hội nhập quốc tế sâu rộng và phát huy nguồn nhân lực, vật lực và tài lực của đất nước.

Bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, kinh tế Việt Nam đứng trước cả cơ hội và thách thức đan xen. Cơ hội đến từ cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, tiến bộ công nghệ, dịch chuyển chuỗi cung ứng và vị thế địa chính trị, kinh tế ngày càng nâng cao. Song thách thức vẫn rất lớn, từ nguy cơ rơi vào bẫy thu nhập trung bình, chất lượng thể chế chưa theo kịp yêu cầu phát triển, năng lực đổi mới sáng tạo còn hạn chế, sức ép về tăng trưởng xanh, cạnh tranh toàn cầu và biến đổi khí hậu.

Để đạt mục tiêu trở thành nước phát triển, thu nhập cao vào năm 2045, nhiệm vụ đặt ra cần tập trung đẩy mạnh hoàn thiện kinh tế thị trường cạnh tranh công bằng, minh bạch hiệu quả, giảm thiểu chỉ đạo bằng mệnh lệnh hành chính; tăng cường năng lực và hiệu quả quản trị quốc gia và trách nhiệm công vụ, khắc phục tình trạng trì trệ, thiếu trách nhiệm trong đội ngũ công chức; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và khoa học công nghệ, lấy đổi mới sáng tạo, kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn làm trụ cột tăng trưởng mới...

Để đóng góp cho quá trình đánh giá bức tranh kinh tế và ban hành chiến lược phát triển, các giải pháp điều hành kinh tế, ngành thống kê sẽ nâng cao tinh thần trách nhiệm trong thu thập, biên soạn kịp thời các chỉ tiêu kinh tế - xã hội sát với thực tiễn; đồng thời, tăng cường phân tích, đánh giá tình hình, cảnh báo sớm để Chính phủ không bị động, có căn cứ ban hành, thực thi các chính sách, giải pháp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

Bài 3: Dấu ấn phát triển đột phá

Thùy Dương - Nguyễn Huyền - Thúy Hiền/TTXVN (Thực hiện)