Thầy giáo đặc biệt trong lớp học lỡ làng

Dù mang đôi chân bại liệt, tấm lưng còng, nhưng người đàn ông này chưa một lần tuyệt vọng. Anh đến với những con người, với những đứa trẻ nhỡ nhàng để chia sẻ với các em những hiểu biết của mình.


Hai sáu năm cặm cụi đưa đò


Giữa cái rét căm căm, hằng đêm, trong căn nhà lá nằm lọt thỏm giữa thôn Thanh Lam Trung vẫn vang lên những tiếng đánh vần bập bẹ. Mấy mươi ánh đèn dầu sáng rực soi rõ từng gương mặt người học, gồm cả trẻ lẫn già. Tất cả cùng hướng lên phía thầy giáo - một thanh niên tàn tật đang vạch từng con chữ.


Đó là lớp học của anh giáo Nguyễn Trai 26 năm về trước. Một anh giáo khuyết tật hai chân đã mở lớp xóa mù chữ cho rất nhiều thế hệ người dân thôn Thanh Lam Trung (thị trấn Phú Đa, huyện Phú Vang, Thừa Thiên-Huế) này.


Ngày đó, nếu người thanh niên khuyết tật hai chân không trở thành một người thầy giáo thì có lẽ anh Nguyễn Trai đã không có động lực để có thể sống tiếp được tới ngày nay. Sinh năm 1964 trong một gia đình có 6 anh chị em, năm lớp 9 thì bi kịch xảy ra với anh. Anh vẫn còn nhớ rất rõ khi đó đang cuốc đất thì bỗng dưng toàn thân rung lên lập cập, hai chân cứ khuỵu mãi vào nhau, gia đình vội đưa đến bệnh viện khám thì được chẩn đoán là viêm đa khớp. Phải nằm lại chữa trị, mấy ngày đầu còn vịn thành giường đi được nhưng đến ngày thứ ba thì toàn thân cứng đơ như khúc gỗ, hai chân liệt hoàn toàn. Bác sĩ khuyên gia đình nên đưa ra bệnh viện Bạch Mai ngoài Hà Nội để có điều kiện chữa trị tốt hơn. Nhưng với một gia đình nuôi đến tám miệng ăn, chạy từng bữa đã khó thì lấy tiền đâu mà đưa con đi xa thế.

 

Thương con cũng đành cắn răng đưa về nhà cúng bái, thôi thì phó mặc cho trời thương. Năm đó anh mới bước qua tuổi 19. Còn chất chứa biết bao nhiêu ước mơ và dự định thì anh lại phải gắn chặt cuộc đời với chiếc giường, mọi sinh hoạt đều dựa vào người thân. Quá thất vọng và chán nản, một phần vì thương cha mẹ, đã nhiều lần chàng thanh niên ấy nghĩ tới cái chết, muốn chết nhưng cũng chẳng biết làm cách nào vì toàn thân không thể nhích khỏi thành giường một phân. Thương học trò, các thầy cô cắt cử nhau thay phiên đến tận nhà anh Trai dạy học, cực khổ mưa gió mấy cũng không bỏ dạy buổi nào. Vào học, thầy ngồi bên thành giường vừa giảng bài vừa động viên, trò nằm trên giường gắng gượng chép vào tập vở. Bạn bè thường xuyên đến thăm, tập cho anh ngồi dậy. Mới đầu là buộc 2 chân vào giường, dựng phần lưng ngồi thẳng trước, khi ngồi được rồi thì tập đi. Cực khổ sáu tháng thì anh đi được. Dù là luỵu khuỵu hai chân, nhưng niềm vui thì không thể nào tả nổi.

Anh Trai bên lớp học của mình.

Năm 1987, phong trào xóa mù chữ được Nhà nước khởi xướng mạnh mẽ, mỗi thôn xóm đều mở một lớp học bình dân. Nhận thấy thôn Thanh Lam Trung chỉ có mỗi mình anh Trai là nhiều chữ, cán bộ xã động viên anh mở lớp. Đêm trước ngày nhận lớp, người thanh niên ấy thao thức cả đêm, sung sướng không ngủ được. Từ một người vô dụng, anh được vinh dự đứng trên bục giảng. Gieo ước mơ cái chữ cho những em thơ, cho những nông dân quanh năm bán mặt cho đất bán lưng cho trời, lòng anh lại thao thức vì rồi đây sẽ có người thay anh viết tiếp giấc mơ còn dang dở. Lớp học được mở ngay trong chính ngôi nhà lá của anh. Ban ngày mọi người ra đồng, đêm đến thắp đèn í ới gọi nhau đi học. Già trẻ, trai gái có cả. Cuối tháng họ trả công cho anh khi rổ khoai, khi vài lon đậu. Dù cuộc sống kham khổ, hai chân thường xuyên đau nhức những khi trời trở gió, nhưng mỗi khi nghe các em học sinh, các chú các bác gọi mình bằng thầy với niềm tin yêu, anh lại tràn trề sức sống để tiếp tục.


“Sửa những khiếm khuyết cuộc sống”


Chúng tôi đến nhà anh vào một ngày đầu tháng 11. Ngôi nhà lá ngày xưa giờ đã trở thành nhà gạch lợp phibôximăng chắc chắn, nhưng vẫn nghèo như thủa nào. Anh cho biết, năm 2005, một nhà hảo tâm ở tận Nha Trang đã ủng hộ tiền xây nên lớp học này. Ngôi nhà rộng chừng 30 m2 được ngăn ra một phòng rộng khoảng 8 m2 làm nơi ở cho cả gia đình 3 người. Đồ đạc cũ kĩ và bụi bặm. Trong căn lớp học cạnh bên kê 6 bộ bàn ghế, còn để trống một khoảng phòng phía sau như bị ai khiêng bớt bàn ghế đi. Anh cho biết, giờ đây lớp của anh chỉ còn dạy 8 học sinh nên dẹp bớt bàn ghế để cho thoáng. Tất cả các em đến lớp anh đều thuộc diện nghèo khó, không đủ điều kiện đến trường, trong đó còn có một em mắc bệnh Down. Buổi sáng các em từ mẫu giáo đến lớp 4 đều học ghép chung một buổi. Những em đã học qua lớp 4 có thể học tiếp lên lớp 5 ở một trường chính quy bất kì. Bây giờ người quê anh Trai vẫn nghèo, khi người lớn bị dòng đời xô đẩy trong cuộc mưu sinh thì những đứa trẻ nhỡ học vẫn không sao hết được. Anh Trai vẫn âm thầm mở lớp để “góp phần sửa những khiếm khuyết của cuộc sống” như lời anh nói. Mấy trăm đứa trẻ đã vào đời từ lớp học kỳ lạ của anh Trai.


Tôi hỏi anh: “Thế năm sau nếu như các em học sinh đến lớp của anh ít hơn bây giờ thì anh có dạy nữa không ?” Anh khẳng định chắc nịch: “Em nào còn cần tôi, dù chỉ một em tôi cũng dạy!”. Tôi hỏi bây giờ anh mong ước điều gì? Anh bảo “Chỉ mong sao không còn ai đến học lớp của anh nữa!”. Nghe như một điều nghịch lý. Nhưng chưa để tôi hết ngạc nhiên, anh mỉm cười nói: “Trước đây thấy lớp đông học sinh thì tôi cũng mừng, bây giờ lớp ngày càng ít học sinh thì tôi lại càng mừng hơn. Vì bà con ngày càng khá giả hơn, đã có điều kiện để cho con mình đến trường, đến lớp đàng hoàng, được học hành tốt hơn!”. Anh dạy chữ “làm vốn” cho những em đã lớn, dạy đuổi rồi gửi tiếp các em nhỏ vào trường phổ thông. Trong số hơn 400 đứa trẻ nhỡ nhàng chuyện học ở đây qua nhiều thế hệ, học những nét chữ đầu tiên từ anh Trai có đến mấy chục em đã học tiếp để lên đến đại học và cao đẳng. Cũng như bao năm về trước, tiền công mỗi tháng của anh cũng chỉ là khi rổ sắn khi rá khoai, hay có người cuốc giúp anh mảnh vườn. Có nhiều em vì nhà nghèo quá anh dạy không công, tìm mọi cách giúp đỡ để em có thể tiếp tục đến lớp. Ở vùng quê nghèo này người ta chẳng có gì quí giá, ngoại trừ cái tình cái nghĩa của con người.


Nhắc đến gia đình, đôi mắt anh trở nên rạng rỡ. Một người phụ nữ, cũng nhỡ nhàng, đã cho anh Trai một gia đình thực sự, nhỏ thôi, nghèo nhưng đầm ấm. Trong số đám bạn ngày xưa hay đến động viên anh lúc anh còn nằm liệt giường, có chị Đặng Thị Ánh là có tình cảm đặc biệt với anh Trai. Nhiều lần chị đến động viên, chăm sóc, giặt giũ quần áo giúp anh. Nhưng vì mặc cảm đôi chân, nghĩ mình không thể mang lại hạnh phúc cho chị, anh Trai đã nhiều lần đuổi chị về. Thấy cha mẹ bất bình, anh bảo: “Con đuổi người ta về là vì không muốn vì mình mà người ta phải khổ cả đời!”. Chị Ánh vì thất vọng, đã bỏ đi làm ăn trong tận Đồng Nai. Năm 2005, chị Ánh quay trở về quê, trên tay là đứa con gái chưa đầy tháng tuổi. Lúc này, vì thương cảm tình cảnh mẹ góa con côi, anh Trai đồng ý làm đám cưới với chị, sau bao nhiêu song gió tai ương và mặc cảm, cả sự nhỡ nhàng của phận người phụ nữ, cả sự nhỡ nhàng của đường gia đạo lận đận của anh, thế là hai người lại tìm đến với nhau như tìm một sự đồng cảm, để có thể dựa dẫm vào nhau. Gia đình hai bên vui vẻ chấp thuận. Đám cưới được tổ chức giản dị, chỉ vài ba chén rượu ra mắt bà con chòm xóm, hai người thành vợ chồng.


Trên con đường trở về, chúng tôi ghé qua nhà chị Nguyễn Thị Liên, là một học trò cũ của anh Trai. Hai đứa con của chị cũng đang theo học lớp anh. Thế là gia đình chị có 2 thế hệ làm học trò của anh, tôi chợt nhớ đến câu nói ngậm ngùi của anh: “Mới ngày nào còn cầm tay nắn nót từng chữ cái cho cô bé mới vô mẫu giáo, chớp mắt một cái đã thấy chính cô bé đó dắt một cô bé tới xin được học lớp mình”.


Bài và ảnh: Quang Quý - Gia Ly

Chia sẻ:

doanh nghiệp - Sản phẩm - Dịch vụ Thông cáo báo chí Rao vặt

Các đơn vị thông tin của TTXVN