Kỷ niệm Ngày Nam bộ kháng chiến 23/9: Hình tượng nóp và ngọn tầm vông

Đã hơn nửa thế kỷ trôi qua, vậy mà mỗi lần nghe bài hát “Nam Bộ kháng chiến” của thầy giáo trẻ Tạ Thanh Sơn không ít người vẫn trào dâng niềm xúc động. “Mùa thu rồi, ngày hăm ba. Ta đi theo tiếng kêu sơn hà nguy biến. Nóp với giáo mang ngang vai. Nhưng thân trai nào kém oai hùng …”. Âm vang của bài hát ấy đã từng làm rung động bao trái tim người chiến sĩ theo nhịp bước quân hành và làm sống lại một thời trai trẻ trong khí thế sôi nổi của Cách mạng tháng Tám và những ngày đầu Nam Bộ kháng chiến.


Vũ khí đặc biệt của quân dân Nam Bộ


Mãi cho đến hôm nay, hình ảnh của nóp và ngọn tầm vông vẫn còn gợi lại trong ta hình tượng những đoàn quân chân không, tay cầm ngọn tầm vông, vai mang chiếc nóp rầm rập tiến trên các nẻo đường hành quân. Họa sĩ Tô Dự, người đã từng trải qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, kể rằng: Trong những ngày đầu chống thực dân Pháp, chiếc nóp và gậy tầm vông là hai vật bất ly thân của người chiến sĩ Nam Bộ, còn với nhân dân thì chiếc mõ tre được coi như một thứ “vũ khí” đặc biệt, một âm thanh cách mạng dùng để thông tin, liên lạc và trấn áp địch trong những lúc nguy cấp.

Giáo và gậy tầm vông (Ảnh chụp tại Bảo tàng TP Cần Thơ)

Trong các loại vũ khí thô sơ, ngọn tầm vông là thứ vũ khí lợi hại nhất của nghĩa quân Trương Công Định mà cụ Nguyễn Đình Chiểu đã từng ca ngợi: “Trong tay cầm một ngọn tầm vông, chi nài sắm dao tu nón gõ …”. Cuộc chiến đấu của quân và dân ta trên chiến trường miền Nam diễn ra trong điều kiện cực kỳ khó khăn gian khổ. Song, quân và dân ta đã chiến đấu anh dũng và kiên cường bằng các loại vũ khí thô sơ như thế.

Chiếc nóp trong thời kỳ chống Pháp (Ảnh chụp từ Bảo tàng TP Cần Thơ)


Còn chiếc nóp vừa là sản phẩm độc đáo của nhân dân Nam Bộ, vừa là bạn đồng hành của những nông dân chân lấm tay bùn. Chính chiếc nóp đã giúp cho họ có được những giấc ngủ yên lành, nhất là những nơi sình lầy như Đồng Tháp Mười, nơi mà ngày đêm “Muỗi kêu như sáo thổi. Đỉa lội lềnh tợ bánh canh” khiến cho bà con nông dân phải đốt lá cây hun khói để đuổi muỗi, hoặc ngủ “mùng gió” nghĩa là ngồi trên xuồng thỉnh thoảng phải bơi thật nhanh cho có gió. Thậm chí có người còn ngủ “mùng nước” nghĩa là nằm ngâm mình trong xuồng chứa nước, chỉ ló đầu ra để thở.


Chiếc nóp trong đời sống dân nghèo


Theo nhà khảo cổ Vương Hồng Sển thì nóp là bao đệm to, dài cỡ hai thước, may kín, chừa miệng theo chiều dọc, ban đêm dân lao động Hậu Giang chui vào để ngủ. Cái nóp có lẽ do người Miên bày ra trước. Cũng có nguồn tài liệu kể rằng: Thời Thiên Hộ Vương lập chiến khu đánh Tây ở Đồng Tháp Mười, số nghĩa quân lên tới hàng ngàn, mỗi đồn có tới hai ba trăm người nhưng đa số đều không có mùng mền, mỗi người chỉ mang theo một chiếc đệm bàng rồi gập đôi lại, tối chui vào nằm cho đỡ muỗi cắn. Lúc đầu chiếc nóp trông có vẻ đơn giản, về sau anh em nghĩa quân thấy chiếc đệm bàng có nhiều công dụng nên mới cải tiến dần và ngày càng phổ biến rộng đến nhân dân. Anh em đặt tên cho nó là chiếc XẾP, sau đổi thành NẾP để khỏi trùng âm với chef (xúc phạm tới quan Tây). Ít lâu sau có một thầy đội người Việt tên Nếp, hắn cấm bà con gọi chiếc xếp bằng tên hắn nên mới đổi thành Nốp rồi đọc trại ra Nóp cho đến ngày nay…

Chiếc nóp và gậy tầm vông đã trở thành niềm tự hào của người dân Nam Bộ, là biểu tượng của tinh thần hiên ngang bất khuất và tinh thần chịu đựng gian khổ trong suốt hai cuộc kháng chiến thần kỳ giành độc lập tự do cho dân tộc.


Tháp Mười và Kiên Giang là quê hương của các loài cỏ đưng, cỏ lác nhưng nổi tiếng nhất vẫn là bàng. Bàng làm ra đệm, nón, giỏ.


Vào những năm kháng chiến ác liệt, từ những nơi xa xôi, hằng trăm phụ nữ, mẹ già thức đêm giã bàng, đan đệm, chằm nóp gởi ra tiền tuyến cho con, cho chồng và tặng người yêu đang ngày đêm chiến đấu sẽ làm rung động mãi trái tim Việt Nam: Nóp nầy em gởi tặng anh/Thuyền em bơi tận trong kinh Tháp Mười/Gởi ba nó ngủ ấm lòng/Để đi giết giặc lập công thật nhiều. (Ca dao)


Giặc Pháp gọi chiếc nóp là “màn Việt Minh” vì trên bước đường hành quân vạn dậm, chiếc nóp vừa là ba lô, vừa là chiếc mùng cũng vừa là tấm chăn để phủ liệm thi hài đồng đội. Ở vùng sông nước miệt vườn, bà con đi làm ăn xa thường mang theo đệm, nóp, nồi niêu và ít đồ dùng xuống ghe lênh đênh khắp kinh rạch. Đi đến đâu người làm thuê gánh mướn bao giờ cũng giữ chiếc nóp bên mình. Khi mỏi mệt dựa lưng vào phì phà khói thuốc. Lúc buồn ngủ chui vô làm một giấc ngon lành. Từ việc ngủ bờ ngủ bụi cho tới ngủ xuồng ngủ ghe, ngủ chăn vịt, ngủ giăng câu đặt lờ… không có gì hữu dụng bằng chiếc nóp quê mình.


Mãi cho tới thời chống Mỹ cứu nước, nhiều anh em du kích vẫn còn quấn khăn rằn nằm nóp nhưng chiếc nóp trong thời kỳ này được cải tiến tiện lợi hơn, thông dụng hơn.

Hoài Phương

Chia sẻ:

doanh nghiệp - Sản phẩm - Dịch vụ Thông cáo báo chí Rao vặt

Các đơn vị thông tin của TTXVN