02:11 22/02/2015

Tướng Hoàng Kiền - người có công đầu đưa đất ra Trường Sa

Thiếu tướng Hoàng Kiền đã có ý tưởng tuyệt vời là mang đất ra Trường Sa để các chiến sĩ trồng rau xanh cải thiện bữa ăn, làm xanh các hòn đảo quanh năm vốn khô cằn trong nắng và gió biển.

Đầu những năm chín mươi của thế kỷ trước, khi là Trung đoàn trưởng Trung đoàn Công binh Hải quân 83, Thiếu tướng Hoàng Kiền đã có ý tưởng tuyệt vời là mang đất ra Trường Sa để các chiến sĩ trồng rau xanh cải thiện bữa ăn, làm xanh các hòn đảo quanh năm vốn khô cằn trong nắng và gió biển.

Niềm trăn trở và ý tưởng bất ngờ


Thiếu tướng Hoàng Kiền (SN 1950, quê ở xã Giao Thịnh, huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định) vốn nổi danh với hàng loạt những sáng kiến thiết kế, chỉ đạo thi công các công trình ở Trường Sa và tuyến đường tuần tra biên giới dài hơn 10.000 km. Ông là vị tướng giản dị, xốc vác, nhiệt tâm, dành phần lớn cuộc đời với những miền đất gian khó của Tổ quốc.

Thiếu tướng Hoàng Kiền có khoảng mười năm gắn bó với Trường Sa. Năm 1989, sau khi tốt nghiệp Học viện Lục quân, với quân hàm thiếu tá, ông được điều động về làm Trung đoàn trưởng Trung đoàn Công binh Hải quân 83 ở Đà Nẵng. Ngay khi về công tác ở đây, ông đã có mặt tại Trường Sa, thiết kế, chỉ đạo thi công các công trình chiến đấu. Điều khiến ông trăn trở là các đảo ở Trường Sa đều rất khô cằn, thứ cây có thể sống được chỉ là phong ba, muống biển. Các chiến sĩ thiếu rau xanh, ăn uống toàn đồ hộp trong khi thời gian nghĩa vụ quân sự thì dài, với chiến sĩ thì khoảng ba năm, còn cán bộ có khi tới chục năm.

“Đồng chí An quê Hà Nam, đảo trưởng đảo Song Tử Tây cũng mười mấy năm ở đảo. Do chế độ ăn uống nên anh em ở lâu dễ bị bệnh đường ruột. Mỗi lần trung đoàn ra đảo xây dựng, quà cho anh em chiến sĩ không gì quý bằng rau xanh. Ai bị ốm, quà tới thăm hỏi cũng là rau củ để bồi bổ sức khỏe. Lúc ốm, thứ quý nhất lại là rau đấy”, Thiếu tướng Hoàng Kiền nhớ lại.

Nhưng nhu yếu phẩm của anh em  đều trông vào các chuyến tàu tiếp tế của Hải quân. Mà mỗi năm, theo chương trình của Vùng 4 Hải quân ra đảo để cấp hàng thì chỉ có hai chuyến, một chuyến vào giữa năm và một chuyến vào dịp Tết. Trong số các nhu yếu phẩm, rau xanh đưa ra cho anh em cũng chỉ để được vài ngày.

Từng là một người lính công binh Trường Sơn, những năm bảy mươi, thời kỳ bom đạn ác liệt nhất đi khảo sát, mở đường cũng như thời gian thi công ở đảo Bạch Long Vĩ, ông rất hiểu sự thiếu thốn của các chiến sĩ, cũng là đồng đội của mình. Ngay khi ấy kỹ sư Hoàng Kiền đã nghĩ phải làm cách nào đó để giúp anh em có rau ăn, vừa cải thiện cuộc sống, vừa thêm gắn bó tình nghĩa giữa bộ đội ở đảo với công binh, vì các chiến sĩ hỗ trợ công binh trong xây dựng rất nhiều. Nhưng giúp cách nào khi đất màu không có, nước ngọt lại rất hiếm. Trước đó, bộ đội ở đảo cũng đã nghĩ nhiều cách, mỗi lần nghỉ phép đều mang hạt giống ra nhưng việc trồng rất khó khăn.

Một ý tưởng đã hình thành rất nhanh chóng: Phải đưa đất màu ra đảo, mà người đưa ra không ai khác là công binh. Trung đoàn Công binh Hải quân 83 (nay là Lữ đoàn Công binh Hải quân 83) là đơn vị xây dựng các công trình ở Trường Sa từ năm 1976 đến bây giờ. Mỗi năm, đơn vị ra đảo xây dựng công trình khoảng sáu tháng, tháng ba  đến tháng tám, sang tháng chín vào mùa mưa bão thì rút về để huấn luyện.

“Mỗi năm chúng tôi đưa vật liệu ra Trường Sa bằng tàu vận tải loại bốn trăm tấn và loại nghìn tấn của Hải quân và Tổng cục Hậu cần. Để có thể đưa vật liệu ra cả đảo nổi, đảo chìm thì bình quân mỗi năm có khoảng bảy mươi chuyến cả tàu nhỏ, tàu to. Vậy thì, không có cách nào tốt hơn là mang đất ra đảo bằng chính những chuyến tàu ấy”, Thiếu tướng Hoàng Kiền kể.

Nhưng việc mang đất ra đảo cho bộ đội trồng rau không phải là nhiệm vụ của công binh, việc này cũng chẳng có cấp trên nào giao cho. Ông chủ động đem ý tưởng này ra bàn với Ban Chỉ huy Trung đoàn. Đây là vấn đề rất quan trọng vì liên quan đến việc phối hợp với tàu, công binh phải chuẩn bị và chuyển đất, nên sau đó được đưa ra Đảng ủy họp, thống nhất thực hiện và đưa vào Nghị quyết mang đất ra Trường Sa giúp bộ đội trồng rau.

Lên rừng lấy đất chuyển ra đảo

Để có cả ngàn tấn đất đưa ra Trường Sa là cả một kỳ tích của  Trung đoàn Công binh Hải quân 83. Hải quân Việt Nam đóng giữ chín đảo nổi gồm: Trường Sa, Nam Yết, Sinh Tồn, Sơn Ca, Song Tử Tây, Trường Sa Đông, Sinh Tồn Đông, An Bang, Phan Vinh; 12 đảo chìm (các bãi đá ngầm) với tổng số 33 điểm đóng quân. Như thế cần một khối lượng đất rất lớn mới có thể cung cấp hết cho các đảo. Trong khi đó, Trung đoàn đóng quân ở Đà Nẵng, tàu chở vật liệu xây dựng ra đảo thì lại ở quân cảng Nha Trang và Cam Ranh. Nhưng tại Cam Ranh và Nha Trang không có đất màu. Vậy là anh em phải đưa xe lên rừng cách đấy hai, ba chục cây số, xúc đất màu, rồi tới trang trại nuôi trâu bò xin phân mang về phơi khô đem trộn lẫn với đất, đóng vào từng bao.

“Trên mỗi chuyến tàu chở vật liệu ra đảo, chúng tôi gửi một xe đất, khoảng bẩy tấn. Một năm khoảng bảy mươi chuyến tàu thì lượng đất mang ra là rất lớn. Bắt đầu từ năm 1991 cho đến khi tôi không còn công tác ở Trung đoàn Công binh Hải quân 83 nữa (năm 1997), cả ngàn tấn đất đều đặn được đem ra các đảo”, Thiếu tướng Hoàng Kiền kể.

Đưa được đất lên đảo cũng là một kỳ công. Các điểm đảo đều rất xa đất liền, đảo gần nhất cũng khoảng 500 km, đảo xa thì trên 1.000 km. Các đảo độc lập, không có cầu cảng, ngoại trừ Trường Sa Lớn, vì vậy các tàu đều phải neo cách đảo từ nửa cây số đến một cây số. Từ tàu phải thả dây vào đến đảo, cột chặt lại, rồi thả xuồng xuống, cẩu hàng xuống xuồng kéo vào bờ. Những năm sau chuyển sang dùng xuồng máy kéo.

“Khi mang được đất ra rồi, chúng tôi lại bàn với đảo, đề xuất với Bộ Tư lệnh Hải quân xem nên quy hoạch hòn đảo như thế nào, trồng rau ở đâu. Với đảo lớn, có thể làm vườn thì công binh giúp xây, vây quanh, che kín lại vì gió to, mùa mưa hứng nước, mùa khô xây hố để thu nước tắm giặt để tưới.
Các đảo có diện tích nhỏ thì đào hố trồng bầu bí mướp leo lên giàn, kết hợp trồng rau. Với đảo chìm, mỗi năm xây dựng xong, gỗ cốt-pha rất nhiều, công binh tận dụng đem đóng thành hộc, cho đất vào đem tặng cho chiến sĩ xếp quanh nhà  để trồng rau.

Lần nào ra, chúng tôi cũng mang hạt giống ra, nhiều nhất là hạt rau cải, hạt rau muống. Hạt giống một phần do trên cấp, một phần chúng tôi mua để tặng anh em mỗi đảo một ít”, Tướng Hoàng Kiền kể.

Thiếu tướng Hoàng Kiền (ngoài cùng bên trái, nguyên Trung đoàn trưởng Trung đoàn Công binh Hải quân 83) chỉ huy thi công ở Trường Sa (Ảnh nhân vật cung cấp).


Xây kè quanh đảo

Vấn đề còn lại là làm thế nào để có nước ngọt sinh hoạt cũng như tưới cây. Đảo chìm thì ngập quanh năm, đảo nổi thì toàn đá, cát, san hô. Do độ xốp của đá cát phong hóa từ san hô nên khi mưa xuống, trừ những đảo lớn còn tích được một chút nước lợ, có thể tắm giặt; các đảo khác nước mưa trôi hết. Các đảo đều bị xói lở nghiêm trọng do sóng đánh, có nơi sóng đánh vỡ cả công trình mà Trung đoàn Công binh Hải quân 83 xây dựng.

“Lực lượng Công binh Hải quân chúng tôi đề xuất với Quân chủng Hải quân báo cáo lên Bộ Tổng tham mưu xây kè quanh đảo. Đầu tiên xây bằng đá, nhưng sau thấy không an toàn, nên chuyển sang đổ bê tông. Làm kè bê tông vây quanh đảo thành cái giếng kín, khi mưa xuống thì kè sẽ giữ nước ngọt lại, từ đó mới có nước ngọt cho sinh hoạt, nước được giữ lại trong đất thì cây xanh mới lên được”, Thiếu tướng Hoàng Kiền nhớ lại.

Như thế, từ ý tưởng đưa đất, đưa phân ra Trường Sa cho đến đề xuất xây kè chống xói lở, cũng là kè giữ nước ngọt của Thiếu tướng Hoàng Kiền, các đảo đều có kè xung quanh, rau xanh cũng đã được trồng. Khi những mầm rau nhỏ li ti nhú lên, không gì có thể lột tả niềm vui của các chiến sĩ nơi đảo xa. Lòng người chỉ huy Trung đoàn Công binh Hải quân 83 cũng cảm thấy thấy vô cùng ấm áp.

Những đóng góp của Thiếu tướng Hoàng Kiền đã để lại ấn tượng và tình cảm rất sâu sắc với các chiến sĩ ở Trường Sa. Mặc dù đã gần hai mươi năm nay, Thiếu tướng Hoàng Kiền không còn công tác ở Trung đoàn Công binh Hải quân 83, cũng là bằng ấy năm ông không còn thiết kế, chỉ đạo thi công công trình ở đây, nhưng bây giờ nhắc tên ông thì không chiến sĩ nào ở Trường Sa không biết. Anh em chiến sĩ nhắc đến Thiếu tướng Hoàng Kiền là nhắc đến người đã có công đầu khi đưa đất ra Trường Sa.


Bài và ảnh: Xuân Phong

1