Phản bác lý sự "chủ quyền" của Trung Quốc - Bài cuối: Trung Quốc hành xử trái luật pháp quốc tế

Từ tháng 5/2014, khi đặt giàn khoan Hải Dương - 981, Trung Quốc luôn biện minh cho hành động ngang ngược của mình là giàn khoan nằm trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của cái gọi là “Tây Sa” (Hoàng Sa) của Trung Quốc. Điều này hoàn toàn phi pháp, sai trái về mặt luật pháp quốc tế, trên các mặt sau:


i) Các đảo đá tại Hoàng Sa có diện tích nhỏ (lớn nhất là đảo Phú Lâm có diện tích khoảng 2km2), không thỏa mãn điều kiện pháp lý áp dụng cho quy chế đảo là phải có đời sống kinh tế riêng và có thể tự duy trì cuộc sống. Theo Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển (UNCLOS 1982), các đảo đá này không được hưởng 200 hải lý vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa, mà chỉ có vùng lãnh hải 12 hải lý. Điều đó khẳng định vị trí Trung Quốc hạ đặt giàn khoan Hải Dương - 981 (cách đảo Tri Tôn 17 hải lý và sau đó là 25 hải lý) hoàn toàn nằm trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam và hoàn toàn không có tranh chấp, lại càng không nằm trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Hoàng Sa theo quy định của UNCLOS 1982.

 

Tàu Trung Quốc (trái) chủ động đâm va vào tàu thực thi pháp luật của Việt Nam (ảnh chụp ngày 1/6/2014). Ảnh: Sơn Bách - TTXVN


ii) Trung Quốc sử dụng số lượng lớn tàu hải cảnh, hải giám, ngư chính, quân sự cùng máy bay chiến đấu để hộ tống trái phép giàn khoan Hải Dương - 981 vào sâu trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam. Đặc biệt, Trung Quốc cho mở bạt che nòng súng trên các tàu quân sự, chĩa vào tàu dân sự của Việt Nam. Các hành động nói trên cho thấy rõ ràng Trung Quốc đã có hành động đe dọa sử dụng vũ lực. Nghiêm trọng hơn, các tàu của Trung Quốc chủ động, cố tình đâm va, làm hư hại nhiều tàu thuyền của lực lượng thực thi pháp luật của Việt Nam, thậm chí đâm chìm tàu đánh cá của ngư dân Việt Nam, đâm hỏng tàu kiểm ngư, tàu cảnh sát biển Việt Nam, làm bị thương nhiều cán bộ các cơ quan thực thi pháp luật của Việt Nam và nhiều ngư dân đang hoạt động tại ngư trường truyền thống trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Đây là các hành động sử dụng vũ lực hết sức nguy hiểm, đe dọa trực tiếp hòa bình, ổn định, an ninh, an toàn hàng hải và hàng không ở Biển Đông.


Hiến chương Liên hợp quốc đã cấm tất cả các hành động sử dụng vũ lực, đe dọa sử dụng vũ lực nói chung và liên quan đến các vấn đề lãnh thổ nói riêng. Các hoạt động tranh chấp phải được giải quyết thông qua thương lượng hòa bình. Hoạt động sử dụng vũ lực chỉ được thực hiện trong các hoàn cảnh đặc biệt như là tự vệ và (hoặc) được Hội đồng Bảo an cho phép.


iii) Trung Quốc tuyên bố thiết lập vùng an toàn 3 hải lý xung quanh giàn khoan Hải Dương - 981 cũng là hành vi hoàn toàn trái với luật pháp quốc tế. Theo UNCLOS 1982, một quốc gia chỉ được phép thiết lập vùng an toàn 500 m cho các công trình và thiết bị lắp đặt trên biển. Trên thực tế, phạm vi các tàu hải cảnh, hải giám, ngư chính và tàu quân sự của Trung Quốc ngăn cản tàu thực thi pháp luật của Việt Nam bảo vệ chủ quyền vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam nhiều khi lên tới 30 - 40 hải lý. Hành động này đã đe dọa tự do, an ninh và an toàn hàng hải trong khu vực. Không những thế, việc các máy bay trinh sát và tiêm kích của Trung Quốc thường xuyên bay thấp, uy hiếp các tàu công vụ, tàu cá của Việt Nam đã trở thành mối đe dọa đối với an toàn và tự do hàng không trên Biển Đông.


Cách đây một thập kỷ, Trung Quốc đưa ra khái niệm ''trỗi dậy hòa bình'', rồi ''phát triển hòa bình'', cam kết không bá quyền, trấn an thế giới về sự phát triển của mình. Năm 2013, Trung Quốc đề xuất sáng kiến “con đường tơ lụa trên biển” và đề nghị ký hiệp định láng giềng hữu nghị với ASEAN. Tuy nhiên, với những hành động gây hấn và khiêu khích từ năm 2009 trở lại đây trên Biển Đông và biển Hoa Đông, thế giới đã thấy khoảng cách ngày càng lớn giữa lời nói và hành động của Trung Quốc. Thế giới đang nhìn Trung Quốc như là một cường quốc ngày càng ưa sử dụng sức mạnh để thay đổi hiện trạng trong khu vực, khẳng định chủ quyền bằng cách tạo ra những “thực tế mới” trên Biển Đông, ngày càng hung hăng, vi phạm luật pháp quốc tế, đe dọa an ninh, hòa bình và ổn định khu vực.

Chính vì vậy, lòng tin của các quốc gia trong khu vực đối với Trung Quốc suy giảm, Trung Quốc càng bị cô lập trong khu vực và cộng đồng quốc tế. Tai hại hơn, khi niềm tin về sự “phát triển hòa bình” của Trung Quốc thiếu cơ sở, các nước trong khu vực sẽ tìm kiếm các biện pháp tài phán, xây dựng các mối quan hệ hợp tác quốc tế mới, thậm chí tăng cường khả năng tự vệ. Điều này không có lợi đối với Trung Quốc, bởi cường quốc nào cũng phải tạo dựng môi trường hòa bình và hợp tác xung quanh mình. Một môi trường hòa bình, hợp tác vì phồn vinh chung liệu có thể được tạo dựng bằng chính sách cường quyền?


PGS. TS Nguyễn Hồng Quân

Phản bác lý sự "chủ quyền" của Trung Quốc
Phản bác lý sự "chủ quyền" của Trung Quốc

Gần đây, trong một số hội nghị, hội thảo quốc tế, một số quan chức cao cấp, tướng lĩnh, nhà ngoại giao, học giả Trung Quốc lên tiếng cho rằng: Trung Quốc có chủ quyền ở quần đảo Nam Sa (Trường Sa); giàn khoan Hải Dương - 981 nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của Hoàng Sa...

Chia sẻ:

doanh nghiệp - Sản phẩm - Dịch vụ Thông cáo báo chí Rao vặt

Các đơn vị thông tin của TTXVN