Kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa XIII: Thảo luận Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992

Ngày 3/6, Quốc hội thảo luận tại hội trường về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992. Phiên họp quan trọng này được phát thanh, truyền hình trực tiếp để Quốc hội báo cáo với cử tri và nhân dân cả nước về việc giải trình, tiếp thu ý kiến của nhân dân; đồng thời, nhân dân theo dõi, tiếp tục tham gia ý kiến vào Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992.


Tán thành giữ nguyên tên nước


Thảo luận Điều 1, đa số ý kiến của các đại biểu Quốc hội đề nghị tiếp tục quy định tên nước là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Các ý kiến phân tích: Tên gọi này ra đời trong bối cảnh nước ta vừa hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ, thống nhất đất nước, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, khẳng định rõ con đường, mục tiêu xây dựng chế độ XHCN của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Tên gọi này đã được sử dụng ổn định từ tháng 7 năm 1976 đến nay, chính thức ghi nhận trong Hiến pháp năm 1980 và Hiến pháp năm 1992. Việc giữ nguyên tên nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhằm tiếp tục khẳng định mục tiêu, con đường xây dựng và phát triển đất nước lên chủ nghĩa xã hội.

Đại biểu Nguyễn Văn Tuyết (Bà Rịa-Vũng Tàu) phát biểu ý kiến.
Ảnh: Nhan Sáng-TTXVN


Thể hiện sự nhất trí với giải trình, tiếp thu, chỉnh lý của Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp, đại biểu Trần Văn Tư (Đồng Nai) đánh giá tên nước như dự thảo không phải là sự lựa chọn ngẫu nhiên mà là sự lựa chọn của thời khắc lịch sử sau khi kết thúc quá trình đấu tranh giải phóng dân tộc. Đại biểu nhấn mạnh: Qua 37 năm, tên nước CHXHCN Việt Nam vẫn bảo đảm đường hướng của Đảng, bảo đảm chế độ dân chủ của nhân dân. Tán thành với lập luận của Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 về việc giữ tên nước như hiện nay, đại biểu Nguyễn Văn Tuyết (Bà Rịa - Vũng Tàu) phân tích nếu thay đổi tại thời điểm này sẽ dẫn đến hệ quả không có lợi, phát sinh nhiều thủ tục hành chính gây tốn kém, phức tạp… Hơn nữa theo đại biểu, tên gọi hiện nay qua 37 năm đã trở nên quen thuộc với nhân dân và bạn bè quốc tế.

Đại biểu Trần Văn Tư (Đồng Nai):

HĐND cấp tỉnh sẽ giám sát

Theo tôi, việc thí điểm không tổ chức HĐND cấp quận, huyện, phường còn nhiều ý kiến khác nhau, nhưng đều chung một nguyên tắc kiểm soát quyền lực của cơ quan điều hành ở UBND các cấp, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân theo Hiến pháp và pháp luật quy định. Nói như vậy không có nghĩa là UBND không tiếp công dân hoặc là không xem xét những quyền lợi của công dân, nhưng UBND là cơ quan điều hành rất nhiều việc nên để bảo đảm dân chủ của nhân dân thì các cơ quan của HĐND phải là nơi mà nhân dân gửi gắm, kiến nghị. Trên cơ sở đó HĐND bảo đảm giám sát, giúp cho UBND thực hiện quyền năng của mình thực thi cho đúng, tránh độc đoán về quyền lực không ai kiểm soát.

Tôi thấy rằng trong điều kiện kinh tế phát triển hiện nay, chính quyền đô thị là một vấn đề cần cân nhắc nhưng không phải là tất cả. Chính quyền đô thị dù là cơ quan hành chính, không có HĐND nhưng cơ chế để bảo đảm quyền làm chủ; hoạt động của các cơ quan hành chính… phải có cơ chế giám sát chứ không thể không có HĐND thì muốn làm gì thì làm; điều đó sẽ đụng chạm đến lợi ích, dân chủ của người dân.

Nếu không tổ chức HĐND cấp huyện, quận, phường thì theo xu thế của đề án, HĐND cấp tỉnh sẽ giám sát. Nhưng HĐND tỉnh hiện nay chỉ có số ít đại biểu hoạt động chuyên trách, còn tất cả đều là kiêm nhiệm cho nên cũng không đủ sức để giám sát, chất vấn những hoạt động của HĐND cấp huyện và cấp xã.

Theo tôi, nơi nào có UBND là có HĐND, mà HĐND là cơ quan bầu ra UBND và UBND chịu sự giám sát của HĐND. Đó là một cơ chế xuyên suốt để bảo đảm dân chủ của người dân và đối với chính quyền khi thực thi quản lý xã hội, quản lý nhà nước của mình.

Viết Tôn (ghi)

Đại biểu Trần Ngọc Vinh (Hải Phòng):

“Địa phương nào có UBND thì nơi đó cần có HĐND”

 Theo tôi, quy định về chính quyền địa phương trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 là một trong những nội dung rất quan trọng. Bởi nếu xác định được rõ chính quyền địa phương là ai và địa vị pháp lý trong cơ cấu quyền lực nhà nước như thế nào thì sẽ đảm bảo hiệu quả cho công tác quản lý, chỉ đạo sau này. Tuy nhiên, những quy định về chính quyền địa phương như Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 đưa ra tại kỳ họp này chưa rõ ràng.

Hiện nay, tại 10 tỉnh, thành phố, đang thực hiện thí điểm không tổ chức Hội đồng nhân dân (HĐND) huyện, quận, phường. Như vậy, số lượng tỉnh, thành phố thí điểm theo mô hình mới là chưa nhiều, chưa đủ cơ sở để khẳng định rằng việc bỏ HĐND huyện, quận, phường là phù hợp với yêu cầu của thực tiễn. Vấn đề đặt ra là nếu bỏ HĐND thì đơn vị hành chính nào sẽ là cơ quan giám sát các cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương? Nếu giao chức năng giám sát này cho Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thì không đúng thẩm quyền, chức năng theo quy định. Hơn nữa, nếu bỏ HĐND cấp huyện, quận, phường thì HĐND cấp tỉnh khó có đủ nhân lực và khả năng để giám sát mọi hoạt động của các cấp cơ sở. Do đó, theo tôi, địa phương nào có UBND thì địa phương đó cần có HĐND. Vấn đề cốt yếu là cần tạo điều kiện thuận lợi hơn để HĐND cấp cơ sở đủ mạnh để thực hiện nhiệm vụ được giao.

Phương Liên (ghi)

Bình đẳng giữa các thành phần kinh tế


Nhiều ý kiến của đại biểu Quốc hội tại phiên thảo luận đã tập trung phân tích quy định tại Điều 54 về các thành phần kinh tế. Các đại biểu đều cho rằng quy định về tính chất của nền kinh tế và các thành phần kinh tế là nội dung quan trọng của Hiến pháp. Việc xác định tính chất nền kinh tế đóng vai trò quan trọng và có tính quyết định đối với định hướng phát triển Nhà nước XHCN ở nước ta.


Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp trình Quốc hội 3 phương án tại khoản 1, Điều 54. Theo đó phương án 1: Nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tập thể không ngừng được củng cố và phát triển, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Kinh tế tư nhân là một trong những động lực của nền kinh tế. Kinh tế đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển. Phương án 2: Nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Phương án 3: Nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế.
Qua phân tích, vẫn còn những quan điểm lựa chọn các phương án khác nhau. Tuy nhiên nhiều ý kiến cho rằng nên lựa chọn theo phương án 3. Đại biểu Lê Văn Tân (Hà Nam) cho rằng không nhất thiết kể tên các thành phần kinh tế vì có thể kể thiếu hoặc thừa. Theo đại biểu, phương án 3 đảm bảo các thành phần kinh tế bình đẳng như nhau, không có sự phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế, đảm bảo tính khái quát của Hiến pháp… Cùng quan điểm lựa chọn phương án 3, đại biểu Phạm Trọng Nhân (Bình Dương) phân tích nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng XHCN với nhiều hình thức sở hữu và nhiều thành phần kinh tế. Quy định như phương án 3 là phù hợp với Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH, các thành phần kinh tế đều là thành phần cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường.


Các đại biểu cho rằng tính chất định hướng XHCN của nền kinh tế Việt Nam bảo đảm mọi thành viên trong xã hội sẽ được hưởng thụ một cách công bằng hơn và tốt hơn các giá trị cũng như lợi ích của sự phát triển kinh tế. Định hướng XHCN của nền kinh tế sẽ tạo tiền đề cho việc khắc phục những hậu quả, khiếm khuyết của kinh tế thị trường cũng như những tác động tiêu cực trong quá trình xây dựng, phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế của nước ta.

Khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng


Thảo luận về Điều 4, nhiều ý kiến đại biểu Quốc hội tán thành cần khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội, bổ sung quy định Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp. Vì vậy, cần kế thừa quy định tại Điều 4 của Hiến pháp hiện hành, khẳng định tính lịch sử, tính tất yếu khách quan về sự lãnh đạo của Đảng đối với quá trình cách mạng, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nước ta. Nhiều ý kiến tán thành với nội dung Điều 4 như Dự thảo đã công bố vì đã thể hiện một cách đầy đủ các nội dung và tinh thần của Cương lĩnh, Điều lệ Đảng về bản chất giai cấp, nền tảng tư tưởng của Đảng.


Đại biểu Lê Văn Lai (Quảng Nam) dẫn chứng, tuyệt đại đa số ý kiến của cử tri Quảng Nam khẳng định sự cần thiết phải quy định vai trò lãnh đạo của Đảng trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp. Đây là sự thừa nhận, là sứ mệnh lịch sử của Đảng trong suốt thời gian qua. Tuy nhiên, đại biểu đề nghị cần phải quy định rõ hơn nữa về vai trò lãnh đạo của Đảng đối với xã hội.


Khẳng định sự cần thiết quy định về vai trò lãnh đạo của Đảng trong dự thảo sửa đổi Hiến pháp, đại biểu Huỳnh Tuấn Dương (Hải Dương) nêu rõ đây là quyền thiêng liêng và bất khả xâm phạm của dân tộc Việt Nam; là sự lựa chọn lịch sử được nhân dân thừa nhận, là sự ủy quyền, tín nhiệm của nhân dân đối với Đảng. Hơn nữa, theo đại biểu, quy định này còn phù hợp với truyền thống lập hiến và công ước quốc tế.

 

Ghi nhận các quyền con người


Thảo luận Chương II, về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, nhiều ý kiến đánh giá cao việc ghi nhận các quyền con người trong dự thảo đã bao quát hầu hết các quyền cơ bản về dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa của con người theo các điều ước quốc tế mà nước ta là thành viên. Một số ý kiến đánh giá Dự thảo đã tiếp tục khẳng định và làm rõ hơn các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân trong Hiến pháp năm 1992. Đồng thời, dự thảo cũng đã bổ sung một số quyền mới.


Đại biểu Huỳnh Tuấn Dương đánh giá, Chương II đã khắc phục được nhiều hạn chế về kỹ thuật lập hiến; cân bằng được cấu trúc giữa các nhóm quyền lực; có sự sửa đổi tư duy về chủ thể quyền lực, thể hiện được bản chất của Hiến pháp là văn bản gốc giữa Nhà nước và người dân nhằm thiết lập cơ chế kìm chế quyền lực nhà nước thông qua việc chế định quyền con người và quyền công dân.


Đại biểu Vũ Xuân Trường (Nam Định) thể hiện sự nhất trí cao với việc dự thảo đã bổ sung thêm một nội dung rất quan trọng tại Điều 22 quy định về quyền bất khả xâm phạm về thân thể. Theo đó không ai bị bắt nếu không có quyết định của Tòa án nhân dân, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện Kiểm sát nhân dân trừ trường hợp phạm tội quả tang, việc bắt, giam giữ người do luật định… Đại biểu nhấn mạnh nội dung này đã khẳng định sự tôn trọng của pháp luật đối với quyền tự do của con người.


Quỳnh Hoa - Khiếu Tư

Chia sẻ:

doanh nghiệp - Sản phẩm - Dịch vụ Thông cáo báo chí Rao vặt

Các đơn vị thông tin của TTXVN