11:23 20/11/2012

Thông qua 6 luật

Sáng 20/11, Quốc hội làm việc tại hội trường, biểu quyết thông qua 6 luật.

Sáng 20/11, Quốc hội làm việc tại hội trường, biểu quyết thông qua 6 luật.

 

Chưa cho phép tư nhân thành lập nhà xuất bản


Quốc hội đã biểu quyết thông qua Luật Xuất bản (sửa đổi), với 92,37% số đại biểu có mặt tán thành.


Đại biểu Quốc hội ấn nút biểu quyết thông qua luật. Ảnh: Nguyễn Dân-TTXVN

 

Luật Xuất bản (sửa đổi) gồm 6 chương, 54 điều. Theo luật này, đối tượng được thành lập nhà xuất bản gồm: Cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội ở Trung ương và cấp tỉnh; đơn vị sự nghiệp công lập ở Trung ương, tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp ở Trung ương trực tiếp sáng tạo ra tác phẩm và tài liệu khoa học, học thuật. Nhà xuất bản tổ chức và hoạt động theo loại hình đơn vị sự nghiệp công lập hoặc doanh nghiệp kinh doanh có điều kiện do Nhà nước là chủ sở hữu. Luật đã mở rộng hợp lý sự tham gia của tư nhân trong các khâu khác nhau của hoạt động xuất bản, tuy nhiên chưa cho phép tư nhân thành lập nhà xuất bản.


Đáng chú ý, luật đã bổ sung một chương riêng về xuất bản, phát hành xuất bản phẩm điện tử, cập nhật hơn với sự phát triển công nghệ thông tin và hoạt động xuất bản điện tử trong nước cũng như trên thế giới hiện nay.

 

Điều chỉnh thời gian đào tạo nghề luật sư


Quốc hội đã biểu quyết thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Luật sư với 90,16% số đại biểu có mặt tán thành.


Luật quy định rõ: Người có bằng cử nhân luật được tham dự khóa đào tạo nghề luật sư tại cơ sở đào tạo nghề luật sư. Thời gian đào tạo nghề luật sư là mười hai tháng. Người hoàn thành chương trình đào tạo nghề luật sư được cơ sở đào tạo nghề luật sư cấp Giấy chứng nhận tốt nghiệp đào tạo nghề luật sư.

 

Đại biểu Hoàng Thị Tố Nga (Nam Định).

 

Chính phủ quy định về cơ sở đào tạo nghề luật sư. Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định chương trình khung đào tạo nghề luật sư; quy định việc công nhận đào tạo nghề luật sư ở nước ngoài. Như vậy, thời gian đào tạo nghề luật sư đã được điều chỉnh để cân đối với chương trình đào tạo nghề của các chức danh tư pháp như thẩm phán, kiểm sát viên, chấp hành viên, nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ luật sư, từng bước bảo đảm mặt bằng chung giữa luật sư với các chức danh tư pháp, chuẩn hóa việc đào tạo nghề luật sư.


Luật không cho phép viên chức là người đang làm công tác giảng dạy pháp luật được hành nghề luật sư.

 

Phân loại doanh nghiệp để áp dụng ân hạn nộp thuế


Quốc hội đã biểu quyết thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quản lý thuế với 92,57% số đại biểu có mặt tán thành.

 

Đại biểu Đỗ Văn Vẻ (Thái Bình). Ảnh: Nhan Sáng - TTXVN

 

Luật giữ nguyên quy định hiện hành về ân hạn đối với hàng hóa nhập khẩu là vật tư, nguyên liệu để sản xuất hàng xuất khẩu nhưng có phân loại doanh nghiệp để áp dụng ân hạn. Cụ thể: Đối với các doanh nghiệp nhập khẩu hàng hóa là vật tư, nguyên liệu để sản xuất hàng xuất khẩu, thời hạn nộp thuế tối đa là 275 ngày, kể từ ngày đăng ký tờ khai hải quan nếu đáp ứng đủ các điều kiện sau: Có cơ sở sản xuất hàng xuất khẩu trên lãnh thổ Việt Nam; có hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu trong thời gian ít nhất hai năm liên tục tính đến ngày đăng ký tờ khai hải quan mà không có hành vi gian lận thương mại, trốn thuế, nợ tiền thuế quá hạn, tiền chậm nộp, tiền phạt; tuân thủ pháp luật về kế toán, thống kê; thực hiện thanh toán qua ngân hàng theo quy định của pháp luật. Các trường hợp khác phải nộp thuế trước khi thông quan, giải phóng hàng hóa hoặc phải được tổ chức tín dụng bảo lãnh.

 

Không bổ sung mục tiêu “bình ổn thị trường” trong Luật Dự trữ quốc gia


Được thông qua với số phiếu tán thành 94,58%, Luật Dự trữ quốc gia có 6 chương, 66 điều quy định việc hình thành, quản lý, điều hành và sử dụng dự trữ quốc gia; quyền, nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động dự trữ quốc gia.


Theo luật, Nhà nước hình thành, sử dụng dự trữ quốc gia nhằm chủ động đáp ứng yêu cầu đột xuất, cấp bách về phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai, thảm họa, hỏa hoạn, dịch bệnh; phục vụ quốc phòng, an ninh. Để bảo đảm tính chặt chẽ trong tổ chức thực hiện, tránh mở rộng mục tiêu, vận dụng tùy tiện, luật đã bỏ quy định: “Thực hiện các nhiệm vụ đột xuất, cấp bách khác” và không bổ sung mục tiêu bình ổn thị trường như trong dự thảo.

 

Sẽ có doanh nghiệp của hợp tác xã


Biểu quyết thông qua Luật Hợp tác xã (sửa đổi) với số phiếu tán thành 87,55%, Quốc hội đã nhất trí: Hợp tác xã là tổ chức kinh tế tập thể, đồng sở hữu, có tư cách pháp nhân, do ít nhất 7 thành viên tự nguyện thành lập và hợp tác tương trợ lẫn nhau trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, tạo việc làm nhằm đáp ứng nhu cầu chung của thành viên, trên cơ sở tự chủ, tự chịu trách nhiệm, bình đẳng và dân chủ trong quản lý hợp tác xã. Liên hiệp hợp tác xã là tổ chức kinh tế tập thể, đồng sở hữu, có tư cách pháp nhân, do ít nhất 4 hợp tác xã tự nguyện thành lập và hợp tác tương trợ lẫn nhau trong hoạt động sản xuất, kinh doanh nhằm đáp ứng nhu cầu chung của hợp tác xã thành viên, trên cơ sở tự chủ, tự chịu trách nhiệm, bình đẳng và dân chủ trong quản lý liên hiệp hợp tác xã. Đồng thời, bổ sung thêm: Khi hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã phát triển đến trình độ cao hơn thì sẽ hình thành các doanh nghiệp của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã; doanh nghiệp của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã hoạt động theo Luật Doanh nghiệp.

 

Công khai, minh bạch việc điều chỉnh giá bán lẻ điện


Quốc hội đã biểu quyết thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Điện lực với số phiếu tán thành là 91,16%.


Luật quy định giá bán điện thực hiện theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước phù hợp với cấp độ phát triển của thị trường điện lực. Thực hiện cơ cấu biểu giá bán lẻ điện hợp lý đối với các nhóm khách hàng. Nhà nước hỗ trợ giá bán lẻ điện cho mục đích sinh hoạt đối với hộ nghèo, hộ chính sách xã hội theo tiêu chí do Thủ tướng Chính phủ quy định phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội từng thời kỳ. Bảo đảm quyền tự quyết định giá mua, bán điện trong khung giá, cơ cấu biểu giá bán lẻ điện do Nhà nước quy định của các đối tượng mua bán điện trên thị trường điện lực.


Giá bán lẻ điện do đơn vị bán lẻ điện xây dựng căn cứ khung giá của mức giá bán lẻ điện bình quân, cơ chế điều chỉnh giá và cơ cấu biểu giá bán lẻ điện do Thủ tướng Chính phủ quy định phù hợp với cấp độ phát triển của thị trường điện lực, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 điều 62 của luật này. Bộ Công Thương chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính xây dựng khung giá của mức giá bán lẻ điện bình quân, cơ chế điều chỉnh giá và cơ cấu biểu giá bán lẻ điện trình Thủ tướng Chính phủ quyết định. Việc điều chỉnh giá bán lẻ điện phải được thực hiện công khai, minh bạch về sự biến đổi của các yếu tố cấu thành liên quan đến việc điều chỉnh giá. Nhà nước sử dụng các biện pháp để bình ổn giá bán điện phù hợp với quy định của pháp luật về giá.


Liên quan đến vấn đề phát triển thủy điện, luật đã sửa đổi, bổ sung một số nội dung về nghĩa vụ tuân thủ các quy định về an toàn đập thủy điện và vận hành hồ chứa; bổ sung vào quy định “Hồ chứa nước, đập thủy điện và các công trình phụ trợ phục vụ nhà máy thủy điện phải được xây dựng, quản lý, bảo vệ bảo đảm an toàn vận hành nhà máy điện và vùng hạ du”.

 

Thảo luận về dự án Luật Khoa học và Công nghệ (sửa đổi)


Chiều 20/11, các đại biểu thảo luận tại hội trường về dự án Luật Khoa học và Công nghệ (sửa đổi).


Đa số các đại biểu tán thành với sự cần thiết phải sửa đổi Luật Khoa học và Công nghệ. Các đại biểu đánh giá dự thảo luật về cơ bản đã được xây dựng phù hợp với đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng về phát triển khoa học và công nghệ đã được khẳng định trong nhiều văn kiện quan trọng của Đảng. Tuy nhiên các đại biểu đề nghị ban soạn thảo rà soát, bổ sung thêm các quy định để dự án luật thật sự mang tính đột phá, thể chế hóa được chủ trương lớn nhất của Đảng và chính sách của Nhà nước là bảo đảm “phát triển khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu”. Đại biểu Trần Du Lịch (Thành phố Hồ Chí Minh) cho rằng cần đặt lại vấn đề tiếp cận đối với dự án luật. Mục tiêu của dự án luật cần thể hiện rõ quan điểm khoa học công nghệ phải phục vụ cho sự nghiệp hóa, công nghiệp hóa đất nước. Đại biểu đề nghị đưa một chương "huy động nguồn lực xã hội đầu tư phát triển công nghệ"; đồng thời cần thay đổi hoàn toàn phương thức Nhà nước "bao cấp" cho khoa học công nghệ thành phương thức "tài trợ ngân sách nhà nước" mà nhiều nước trên thế giới đang thực hiện.


Đại biểu Phùng Đức Tiến (Hà Nam) cho rằng luật cần cụ thể hóa hơn nữa việc đào tạo nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, có chính sách cụ thể, tạo môi trường làm việc cụ thể thu hút nhân tài, đặc biệt là đội ngũ chuyên gia đầu ngành; có chế độ khen thưởng, tôn vinh các nhà khoa học có đóng góp quan trọng, có giải thưởng lớn về khoa học công nghệ; phát hiện bồi dưỡng cán bộ tài năng trẻ; quan tâm đầy đủ đến đội ngũ cán bộ khoa học trong lực lượng vũ trang; huy động các nhà khoa học là người Việt Nam ở nước ngoài về đóng góp xây dựng đất nước…


Tán thành với ý kiến trên, các đại biểu Phạm Trọng Nhân (Bình Định), Hoàng Thị Tố Nga (Nam Định), Nguyễn Ngọc Bảo (Vĩnh Phúc) cũng cho rằng luật cần sửa đổi, bổ sung rõ các quy định để thu hút, trọng dụng nhân tài khoa học công nghệ, tạo điều kiện cho các nhà khoa học tiếp cận khoa học, công nghệ.


Các đại biểu đều cho rằng một trong những vướng mắc lớn, điểm tắc nghẽn chủ yếu trong hoạt động khoa học, công nghệ hiện nay chính là cơ chế tài chính. Cơ chế tài chính thể hiện trong luật còn nặng tính bao cấp, chưa phù hợp với đặc thù, đáp ứng yêu cầu về tiến độ của hoạt động khoa học, công nghệ, chưa tạo điều kiện cho cơ quan quản lý nhà nước về khoa học, công nghệ bảo đảm sử dụng đúng mục đích nguồn thu của nhà nước cấp cho khoa học công nghệ... Ý kiến nhiều đại biểu cho rằng việc đổi mới cơ bản cơ chế tài chính trong hoạt động khoa học, công nghệ cho phù hợp với đặc thù của hoạt động khoa học, công nghệ rất cần thiết và cần phải khẳng định cơ chế đổi mới này ngay trong văn bản có hiệu lực pháp lý cao là Luật Khoa học và Công nghệ (sửa đổi).


Đối với quy định về việc trích lập quỹ khoa học công nghệ, đại biểu Đỗ Văn Vẻ (Thái Bình) kiến nghị chỉ nên quy định là quyền chứ chưa phải là nghĩa vụ bắt buộc của doanh nghiệp bởi không phải tất cả các doanh nghiệp đang hoạt động đều có nhu cầu về khoa học, công nghệ như nhau.


Các đại biểu cũng dành nhiều thời gian thảo luận về nguyên tắc, chính sách và nhiệm vụ hoạt động khoa học và công nghệ; về trách nhiệm quản lý nhà nước trong lĩnh vực khoa học và công nghệ; về quyền và nghĩa vụ của tổ chức khoa học và công nghệ...


Thanh Hòa - Phúc Hằng