Thực hiện Nghị quyết Đại hội XI của Đảng: Tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối với Quân đội nhân dân Việt Nam trong tình hình mới

Chuyên mục Thực hiện Nghị quyết Đại hội XI của Đảng giới thiệu bài viết: Tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối với Quân đội nhân dân Việt Nam trong tình hình mới của Thiếu tướng Nguyễn Thanh Tuấn, Cục trưởng Cục Tuyên huấn, Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam.

Sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý thống nhất của Nhà nước là yếu tố cơ bản tạo nên sức mạnh chiến đấu của quân đội ta, đó còn là vấn đề đảm bảo cho quân đội luôn là lực lượng chính trị trung thành, lực lượng chiến đấu sắc bén bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và công cuộc lao động hòa bình của nhân dân.

Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội, trước hết phải kiên định nguyên tắc Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với Quân đội nhân dân Việt Nam . Trong điều kiện hiện nay cần hoàn thiện và thực hiện nghiêm túc cơ chế và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với quân đội. Cơ chế lãnh đạo hợp lý, khoa học là bảo đảm hoạt động lãnh đạo, chỉ huy và hoạt động công tác đảng, công tác chính trị… bảo đảm cho Đảng nắm chắc quân đội trong mọi tình huống. Đảng Cộng sản Việt Nam không những đề ra đường lối quân sự, xác định phương hướng phát triển tiềm lực quân sự, quốc phòng của đất nước, xác định mục tiêu, lý tưởng chiến đấu và các chủ trương, giải pháp nâng cao sức chiến đấu của quân đội, Đảng còn lãnh đạo việc tổ chức hiện thực hóa quan điểm, đường lối vào xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại.

Nhà nước quản lý quân đội trên cơ sở thể chế hoá đường lối, nghị quyết về quân sự, quốc phòng bảo vệ Tổ quốc, xây dựng lực lượng vũ trang thành luật pháp, chính sách, kế hoạch bao gồm kế hoạch dài hạn, trung hạn và ngắn hạn theo mục tiêu nhiệm vụ xây dựng quân đội trong từng thời kỳ. Muốn quản lý, tổ chức và xây dựng quân đội có hiệu lực, hiệu quả thì phải có hệ thống pháp luật phù hợp với thực tiễn. Bên cạnh đó cần cải cách tổ chức và hoạt động của bộ máy hành chính của Nhà nước từ Trung ương đến địa phương trong thực hiện chức năng quản lý Nhà nước đối với quân đội. Điều chỉnh chức năng nhiệm vụ của Chính phủ, Bộ Quốc phòng, các bộ và cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc chính phủ và địa phương cho phù hợp với yêu cầu quản lý Nhà nước đối với quân đội trong tình hình mới. Cải tiến phương thức, lề lối làm việc của các cơ quan, đơn vị trong quân đội, xác định rõ nguyên tắc làm việc và quy chế phối hợp vận hành của bộ máy lãnh đạo, quản lý, chỉ huy ở các đơn vị quân đội.

Tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, gắn liền với tăng cường sự quản lý của Nhà nước đối với quân đội là hai vấn đề quan hệ chặt chẽ với nhau có ý nghĩa quyết định trong việc xây dựng quân đội theo hướng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại. Bởi vì, sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối với quân đội là nhân tố quyết định bản chất, truyền thống cách mạng; sự trưởng thành, lớn mạnh của quân đội ta. Do đó, Đảng, Nhà nước cần bổ sung, phát triển, hoàn thiện đường lối lãnh đạo, cơ chế, chính sách quản lý đối với quân đội, chăm lo xây dựng hệ thống tổ chức đảng trong quân đội trong sạch, vững mạnh gắn với xây dựng, củng cố hệ thống chỉ huy các cấp, các đơn vị trong quân đội vững mạnh toàn diện, đáp ứng yêu cầu lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý công tác quân sự, quốc phòng; xây dựng quân đội, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

Tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối với quân đội trong tình hình hiện nay cần quan tâm những vấn đề cơ bản sau đây:

Một là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối với quân đội trên cơ sở cương lĩnh, đường lối của Đảng, luật pháp của Nhà nước, tiếp tục cụ thể hoá, bổ sung, phát triển đường lối quân sự cho phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.

Để tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý của Nhà nước. Đảng xác định: “Bảo đảm sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với Quân đội nhân dân và Công an nhân dân; nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về quốc phòng, an ninh”. Đảng lãnh đạo Quân đội nhân dân Việt Nam tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt, sự lãnh đạo của Đảng được tập trung thống nhất vào Ban Chấp hành Trung ương mà trực tiếp, thường xuyên là Bộ Chính trị, Ban Bí thư; Đảng quyết định những vấn đề cơ bản xây dựng quân đội trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc, hết lòng hết sức phục vụ nhân dân, là lực lượng nòng cốt cùng toàn dân bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa và tham gia xây dựng đất nước. Nhà nước thống nhất quản lý Quân đội nhân dân theo quy định của Hiến pháp và pháp luật.

Quân đội thường xuyên quán triệt sâu sắc và thực hiện nghiêm túc quan điểm, đường lối quân sự, quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc của Đảng; quân đội đã làm tốt chức năng tham mưu cho Đảng, Nhà nước trong lĩnh vực quân sự, quốc phòng; thực hiện có hiệu quả các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, Nhà nước về xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, xây dựng vững chắc nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân; nâng cao chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu của quân đội nhân dân. Đồng thời giữ vững và thực hiện tốt nguyên tắc lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt, bảo đảm mọi quyền lãnh đạo quân đội luôn thuộc về Đảng. Chỉ có Đảng Cộng sản Việt Nam là người duy nhất lãnh đạo Quân đội nhân dân Việt Nam. Sự lãnh đạo không có thể phân chia cho bất kỳ một cá nhân nào, một lực lượng chính trị nào khác. Nhà nước quản lý quân đội thống nhất chặt chẽ trên cơ sở nguyên tắc tập trung dân chủ, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng và thực hiện quản lý xã hội bằng pháp luật. Vì vậy, tăng cường sự quản lý của Nhà nước đối với quân đội đặt trong mối quan hệ gắn bó hữu cơ với tăng cường sự lãnh đạo của Đảng về mọi mặt đối với quân đội hiện nay, có như vậy quân đội mới thực sự phát huy được vai trò, sức mạnh của mình. Kiên quyết đấu tranh với những luận điệu đòi “phi chính trị hóa” quân đội và những biểu hiện coi nhẹ hay buông lỏng sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của nhà nước đối với quân đội.

Hai là, không ngừng xây dựng, bổ sung và hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối với quân đội. Đây là yếu tố quan trọng góp phần giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý thống nhất của Nhà nước đối với quân đội. Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đặt ra nhiều vấn đề mới đối với việc xây dựng, tổ chức và hoạt động của quân đội, trong đó xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước về quốc phòng, quản lý toàn bộ hoạt động của quân đội với tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với quân đội và sự nghiệp quốc phòng còn là nhân tố quan trọng hàng đầu để củng cố tăng cường sự thống nhất về bản chất chính trị giai cấp của quân đội. Từ khi thành lập quân đội đến nay, cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý đối với quân đội không ngừng phát triển và hoàn thiện để phù hợp với sự phát triển của quân đội trong các thời kỳ lịch sử. Hiện nay trước yêu cầu nhiệm vụ ngày càng cao của cách mạng, việc tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối với quân đội đòi hỏi phải tiếp tục hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng, thực hiện chế độ một người chỉ huy gắn với thực hiện chế độ chính ủy, chính trị viên trong Quân đội nhân dân Việt Nam”. Đây vừa là cơ chế, vừa là chủ trương có ý nghĩa chiến lược trong sự nghiệp xây dựng quân đội; củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Thực hiện tốt chủ trương trên nhằm hai mục tiêu chính: Một là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với mọi hoạt động xây dựng quân đội; Hai là, gắn vai trò, trách nhiệm của các tổ chức Đảng, Nhà nước và các cơ quan chức năng từ Trung ương đến địa phương đối với nhiệm vụ xây dựng quân đội thông qua chế độ, quy định cụ thể về lãnh đạo, chỉ huy, quản lý điều hành và tổ chức thực hiện. Nghị quyết 28 Bộ Chính trị (khóa X) đã xác định cơ chế thực hiện nhiệm vụ quốc phòng: “Hoạt động của khu vực phòng thủ trong tình huống khẩn cấp về quốc phòng và chiến tranh, đặt dưới sự lãnh đạo, tuyệt đối, trực tiếp của cấp uỷ đảng, sự chỉ đạo thống nhất của Ủy ban nhân dân, do chỉ huy trưởng cơ quan quân sự địa phương chủ trì tham mưu và chỉ huy thống nhất các lực lượng vũ trang của khu vực phòng thủ, phối hợp với các lực lượng khác sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu”. Cơ chế này phản ánh vai trò và mối quan hệ cơ bản giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ trong lĩnh vực quốc phòng - an ninh. Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý quân đội không chỉ đơn thuần bằng đường lối, chủ trương mà tất yếu phải thông qua hệ thống tổ chức đảng, hệ thống tổ chức chỉ huy và các tổ chức ở đơn vị cơ sở. Mỗi tổ chức, mỗi con người đều có vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ riêng, nhưng đều vận hành trong cơ chế lãnh đạo của Đảng. Nhờ có sự bổ sung cần thiết, quan trọng về cơ chế, góp phần tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối với quốc phòng - an ninh nói chung và quân đội nói riêng, đồng thời qua đó hoạt động xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam được đẩy mạnh và hiệu quả hơn.

Trong xây dựng, củng cố và hoàn thiện cơ chế này cần khắc phục hiện tượng buông lỏng, lạm quyền, hạ thấp sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước; hạ thấp tính tập trung, thống nhất cao của quân đội và tính năng động, tự giác của cán bộ, chiến sỹ. Đồng thời tạo sự đồng thuận về nhận thức của các bộ, ban, ngành và nhân dân.

Ba là, không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo toàn diện, sức chiến đấu cao của Đảng bộ quân đội và nâng cao hiệu lực công tác đảng, công tác chính trị. Trước hết, cần tiếp tục đổi mới, nâng cao tính chiến đấu, tính hiệu quả công tác tư tưởng, củng cố vững chắc trận địa tư tưởng của Đảng trong quân đội, bảo đảm cho quân đội luôn trung thành với Đảng, Tổ quốc, nhân dân; kiên định mục tiêu lý tưởng của Đảng, kiên định với công cuộc đổi mới xây dựng chủ nghĩa xã hội và vững vàng trước mọi khó khăn thách thức, đồng thời trở thành pháo đài kiên cố trong cuộc đấu tranh chống những quan điểm sai trái bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương chính sách của Đảng. Tập trung kiện toàn hệ thống tổ chức, nâng cao năng lực, trình độ lãnh đạo toàn diện, sức chiến đấu và tính năng động của các tổ chức đảng, đặc biệt là tổ chức cơ sở đảng. Đẩy mạnh việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 (khoá X) và Nghị quyết 147 của Đảng ủy Quân sự Trung ương (Khoá VIII): “Về nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên trong giai đoạn mới”. Các cấp uỷ coi trọng việc xây dựng và triển khai quy chế làm việc, quy chế lãnh đạo các mặt công tác trọng yếu; đặc biệt là xác định các biện pháp cụ thể để thực hiện hiệu quả các khâu đột phá mà Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ Quân đội lần thứ IX đã xác định “Điều chỉnh về tổ chức, biên chế; huấn luyện và đào tạo; xây dựng chính quy, chấp hành kỷ luật của bộ đội và cải cách hành chính quân sự”. Đồng thời thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo gắn với phân công cá nhân phụ trách; tích cực đổi mới, nâng cao chất lượng sinh hoạt Đảng, nâng cao tính chiến đấu, tăng cường đoàn kết, thống nhất trong từng đảng bộ và đơn vị; chủ động triển khai thực hiện kế hoạch kiểm tra, giám sát nhiệm kỳ sát với yêu cầu nhiệm vụ và thực tiễn của từng đảng bộ. Tăng cường công tác cán bộ; kế hoạch xây dựng đội ngũ cán bộ theo hướng giải quyết số lượng gắn chặt với cải thiện cơ cấu, bố trí sắp xếp cán bộ hợp lý nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quân đội.

Bốn là, tăng cường và nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước với quân đội. Trên cơ sở đường lối của Đảng về xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng quân đội nhân dân, sự quản lý của Nhà nước đối với quân đội thông qua quy định của Hiến pháp, pháp luật và phải được cụ thể hoá bằng điều lệnh, điều lệ và các chế độ, quy định của quân đội; thông qua hệ thống tổ chức lãnh đạo, chỉ huy các cấp trong quân đội. Tăng cường tính pháp lý trong quan hệ và xử trí các tình huống, cần bổ sung, hoàn chỉnh hệ thống các văn bản pháp luật và chính sách cho phù hợp với đặc điểm, yêu cầu mới như: Luật quốc phòng; Luật Sĩ quan; Luật Nghĩa vụ quân sự; các pháp lệnh về Dự bị động viên, Dân quân tự vệ, Biên phòng; các chính sách đối với quân đội và hậu phương quân đội. Nhà nước cần có sự đầu tư, quản lý ngân sách và lực lượng cho quá trình xây dựng quân đội, trong đó tập trung vào nghiên cứu phát triển khoa học, công nghệ quân sự, mua sắm vũ khí, trang thiết bị hiện đại đáp ứng yêu cầu xây dựng quân đội trong tình hình mới. Song, điều kiện kinh tế - xã hội đất nước còn khó khăn, vì vậy cần lựa chọn một số ngành, lĩnh vực quan trọng để đầu tư theo hướng “đi trước, đón đầu”, tiến thẳng vào hiện đại. Tất nhiên, việc xác định quy mô, tính chất và mức độ hiện đại đến đâu phải cân nhắc kỹ, dựa trên cơ sở khả năng thực tế của đất nước, cũng như diễn biến cụ thể của tình hình và nhất là phải căn cứ vào chiến lược bảo vệ Tổ quốc, nhằm đáp ứng tốt yêu cầu nhiệm vụ trước mắt và lâu dài.

Quân đội nhân dân Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức, lãnh đạo và rèn luyện. Sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội là nhân tố quyết định bản chất cách mạng, bản chất giai cấp công nhân của quân đội, quyết định mục tiêu chiến đấu, quyết định sự trưởng thành và chiến thắng của quân đội. Sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng luôn gắn chặt với sự quản lý của Nhà nước đối với quân đội, đó còn là bài học kinh nghiệm quý báu xuyên suốt, yếu tố quan trọng giữ vững ổn định tình hình mọi mặt của đất nước. Trong tình hình hiện nay, tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng và sự quản lý của Nhà nước đảm bảo cho quân đội ta không ngừng lớn mạnh, trưởng thành, tiếp tục giữ vững, phát huy bản chất giai cấp công nhân và truyền thống “trung với Đảng, hiếu với dân, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”.

Chăm lo phát triển văn hóa

Trên cơ sở nhận thức đầy đủ hơn, sâu sắc hơn, toàn diện hơn về văn hóa, các văn kiện Đại hội VI đã thể hiện bước tiến mới lý luận về văn hóa. Chúng tôi nêu lên những phát triển mới nổi bật về văn hóa trong các văn kiện Đại hội XI.

Chia sẻ:

doanh nghiệp - Sản phẩm - Dịch vụ Thông cáo báo chí Rao vặt

Các đơn vị thông tin của TTXVN