Ba đột phá chiến lược, tái cơ cấu nền kinh tế

Sáng 20/10, kỳ họp thứ hai, Quốc hội khóa XIII đã khai mạc trọng thể tại Thủ đô Hà Nội.

Khai mạc kỳ họp thứ hai, QH khóa XIII, Chủ tịch QH Nguyễn Sinh Hùng nêu rõ: Tại kỳ họp này, Quốc hội sẽ xem xét các báo cáo của Chính phủ về tình hình kinh tế - xã hội 2005-2010 và năm 2011; dự kiến kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 2011-2015 và năm 2012; tình hình thực hiện ngân sách nhà nước năm 2011, dự toán ngân sách nhà nước năm 2012 và phân bổ dự toán ngân sách trung ương năm 2012; kết quả thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2006-2010, triển khai thực hiện kế hoạch năm 2011 và các chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2012-2015; kế hoạch vốn trái phiếu 2011-2015; quy hoạch sử dụng đất giai đoạn 2011-2020, kế hoạch sử dụng đất giai đoạn 2011-2015 và tổng kết dự án trồng mới 5 triệu ha rừng.

Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng phát biểu khai mạc Kỳ họp. Ảnh : Thống Nhất - TTXVN


Quốc hội sẽ xem xét, thông qua 5 dự án luật và 1 dự thảo nghị quyết: Cho ý kiến về 13 dự án luật. Tiến hành chất vấn và trả lời chất vấn; thông qua Nghị quyết về chương trình hoạt động giám sát của Quốc hội năm 2012.

Quốc hội xem xét các báo cáo công tác của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, Chánh án TAND tối cao, Viện trưởng Viện KSND tối cao; các báo cáo của Chính phủ về công tác phòng, chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, tình hình vi phạm pháp luật, tội phạm và xem xét, quyết định một số vấn đề khác. (Bấm vào đây mời xem toàn văn bài phát biểu khai mạc của Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng).

Kinh tế tăng trưởng bình quân 7%/năm


Báo cáo của Chính phủ về tình hình kinh tế - xã hội năm 2011, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội năm 2012 và 5 năm 2011-2015 do Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng trình bày, nhận định: Trong bối cảnh đầy biến động, mặc dù còn có những yếu kém, bất cập trong quản lý, điều hành nhưng với sự nỗ lực phấn đấu vượt bậc, năng động sáng tạo của toàn dân, của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng và sự quản lý điều hành có hiệu quả của Nhà nước, chúng ta đã vượt qua khó khăn, thách thức, ứng phó có kết quả với diễn biến phức tạp của tình hình, đạt được những thành tựu quan trọng.

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng trình bày Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội năm 2011,kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2012 và 5 năm 2011-2015. Ảnh : Thống Nhất - TTXVN


Kinh tế tăng trưởng khá cao, bình quân đạt 7%/năm; quy mô nền kinh tế tăng lên, các ngành kinh tế xã hội đều có bước phát triển; đời sống nhân dân được cải thiện, tỷ lệ hộ nghèo giảm nhanh; đã hoàn thành hầu hết các mục tiêu thiên niên kỷ; dân chủ trong xã hội có nhiều tiến bộ, khối đại đoàn kết toàn dân tộc tiếp tục được tăng cường. Chính trị xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh và chủ quyền quốc gia được giữ vững; hội nhập quốc tế và hoạt động đối ngoại đạt được những kết quả tích cực. Vị thế và uy tín quốc tế của Việt Nam ngày càng được nâng cao, tạo được môi trường hòa bình, ổn định cho phát triển đất nước. Nước ta đã ra khỏi tình trạng kém phát triển, bước vào nhóm nước đang phát triển có thu nhập trung bình.

Bước vào năm 2011, khó khăn và thách thức đều lớn hơn so với dự báo. Giá lương thực thực phẩm, giá dầu thô và nguyên vật liệu trên thị trường quốc tế tăng cao; thị trường chứng khoán sụt giảm mạnh; khủng hoảng nợ công ở nhiều nước; tăng trưởng kinh tế thế giới chậm lại, lạm phát cao tại hầu hết các quốc gia... tác động tiêu cực vào nền kinh tế nước ta. Ở trong nước, chính sách nới lỏng tài khóa, tiền tệ trong nhiều năm để đáp ứng yêu cầu tăng trưởng kinh tế, đầu tư phát triển hạ tầng, bảo đảm an sinh xã hội và phúc lợi xã hội đã đem lại những thành tựu quan trọng nhưng cũng làm phát sinh những hệ quả tiêu cực. Lạm phát và mặt bằng lãi suất tăng cao; nhập siêu lớn, cán cân thanh toán quốc tế thâm hụt, dự trữ ngoại hối giảm mạnh gây áp lực lên thị trường tiền tệ và tỷ giá; giá vàng trên thị trường biến động bất thường. Sản xuất kinh doanh gặp nhiều khó khăn. Nguy cơ mất ổn định kinh tế vĩ mô trở thành thách thức lớn.

Trên cơ sở tình hình 9 tháng đầu năm và dự báo các tháng cuối năm, Thủ tướng đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2011 trên một số nội dung chủ yếu như sau:

Lạm phát giảm dần, kinh tế vĩ mô có bước chuyển biến tích cực. Nhờ xác định đúng nhiệm vụ ưu tiên là kiềm chế lạm phát và nỗ lực thực hiện đồng bộ các giải pháp để kiểm soát giá cả, điều tiết cung cầu, bình ổn thị trường nên từ tháng 5 năm 2011 mức tăng giá tiêu dùng đã giảm dần, 9 tháng tăng 16,63%, ước cả năm tăng khoảng 18%. Sản xuất kinh doanh được duy trì và tiếp tục phát triển.

Trong điều kiện giá cả thị trường tăng cao, thiên tai, dịch bệnh xảy ra liên tiếp, Chính phủ đã tập trung chỉ đạo bảo đảm an sinh xã hội và phúc lợi xã hội. Chi ngân sách nhà nước cho công tác an sinh xã hội ước tăng khoảng 20% và dư nợ tín dụng ưu đãi thực hiện chính sách xã hội tăng khoảng 17% so với năm 2010. Cả năm, ước tạo được 1,54 triệu việc làm mới, thất nghiệp ở khu vực thành thị khoảng 4%; tỷ lệ hộ nghèo giảm khoảng 1,5%.

Nhiều giải pháp giảm ùn tắc và tai nạn giao thông, chống ngập nước đã được triển khai và đạt được kết quả cụ thể. Tai nạn giao thông 9 tháng đầu năm tính trên 1 vạn phương tiện giảm so với cùng kỳ năm trước cả về số vụ, số người chết và số người bị thương.

Sản xuất, kinh doanh còn nhiều khó khăn

Bên cạnh những kết quả đạt được, Chính phủ cũng nghiêm túc nhìn nhận còn nhiều yếu kém, bất cập. Một số chỉ tiêu quan trọng của Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2011 chưa hoàn thành. Kinh tế vĩ mô chưa ổn định; lạm phát và lãi suất tín dụng còn cao; nợ xấu của hệ thống ngân hàng tăng, thanh khoản của một số ngân hàng thương mại khó khăn; dự trữ ngoại hối thấp, áp lực đối với tỉ giá còn lớn; thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản giảm sút. Sản xuất, kinh doanh còn nhiều khó khăn. Việc đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế còn chậm. Ùn tắc và tai nạn giao thông còn nghiêm trọng, số người chết và bị thương tăng so với cùng kỳ năm trước; khiếu kiện đông người, đình công xảy ra ở nhiều nơi; tội phạm và tệ nạn xã hội chưa giảm.

Tình hình trên có nguyên nhân khách quan là do tác động nặng nề, phức tạp của khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế toàn cầu; nguyên nhân chủ quan là do những yếu kém nội tại của nền kinh tế với mô hình tăng trưởng và cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư kém hiệu quả tích tụ từ nhiều năm, chậm được khắc phục và do những hạn chế, yếu kém trong lãnh đạo, quản lý, nhất là trong quản lý kinh tế vĩ mô, điều hành chính sách tài chính, tiền tệ, trong quản lý đầu tư công, quản lý doanh nghiệp nhà nước, quản lý tài nguyên và trong chỉ đạo giải quyết các vấn đề xã hội bức xúc. Việc khắc phục những khuyết điểm, yếu kém, bảo đảm phát triển bền vững đòi hỏi sự nỗ lực vượt bậc và quyết tâm cao của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của cả hệ thống chính trị trong năm 2012 và những năm tiếp theo. Thủ tướng chỉ rõ.

Thực hiện ba đột phá chiến lược

Về mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp phát triển kinh tế, xã hội năm 2011 – 2015 và năm 2012, Thủ tướng nhấn mạnh:

Năm 2012, việc ổn định kinh tế vĩ mô phải được xác định là nền tảng quan trọng cho việc thực hiện nhiệm vụ trong cả giai đoạn 2011 - 2015 với các trọng tâm là kiểm soát lạm phát, bình ổn thị trường giá cả, cải thiện cán cân thanh toán và phấn đấu giảm bội chi ngân sách.

Về lạm phát, có nguyên nhân bên ngoài do giá nguyên liệu, vật tư nhập khẩu tăng và do phải điều chỉnh tăng giá theo lộ trình một số hàng hóa và dịch vụ; nhưng nguyên nhân chủ yếu gây lạm phát cao ở nước ta là do hệ quả của việc nới lỏng chính sách tiền tệ, tài khóa kéo dài trong nhiều năm để đáp ứng yêu cầu đầu tư phát triển, bảo đảm an sinh xã hội và phúc lợi xã hội trong khi cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư còn kém hiệu quả; cùng những hạn chế trong quản lý điều hành và tác động cộng hưởng của các yếu tố tâm lý. Để kiềm chế lạm phát, phải kiên quyết khắc phục các nguyên nhân chủ yếu nêu trên.
Ưu tiên nguồn lực thực hiện ba đột phá chiến lược và tái cơ cấu nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng theo hướng nâng cao hiệu quả và khả năng cạnh tranh.

Thực hiện nhất quán chủ trương đổi mới mô hình tăng trưởng từ phát triển theo chiều rộng sang phát triển theo chiều sâu, từ dựa chủ yếu vào tăng vốn đầu tư, khai thác tài nguyên và lao động chất lượng thấp sang dựa vào hiệu quả, năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh của nền kinh tế.
Tháo gỡ khó khăn, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp phát triển sản xuất, kinh doanh và mở rộng thị trường.

Trong khi thực hiện chính sách tài chính, tiền tệ chặt chẽ để kiềm chế lạm phát, phải tập trung đẩy mạnh sản xuất, phát triển dịch vụ và thu hút đầu tư. Phát triển mạnh sản xuất kinh doanh là giải pháp cơ bản, lâu dài, tạo hiệu quả trực tiếp, nhiều mặt đến đời sống kinh tế, xã hội; bảo đảm tăng nguồn cung các hàng hóa và dịch vụ, vừa là nguồn gốc của tăng trưởng, vừa trực tiếp góp phần kiềm chế lạm phát, giảm nhập siêu. Phải đặc biệt quan tâm tháo gỡ các khó khăn vướng mắc, bảo đảm đủ vốn, đủ ngoại tệ cho sản xuất các ngành hàng, các sản phẩm mà thị trường trong nước và xuất khẩu đang có nhu cầu lớn. Thu hút mạnh và giải ngân nhanh các nguồn vốn đầu tư, nhất là các dự án đầu tư sản xuất sản phẩm công nghệ cao và có giá trị xuất khẩu lớn.
Tiếp tục chăm lo bảo đảm an sinh xã hội và phúc lợi xã hội, tập trung giải quyết các vấn đề xã hội bức xúc.

Phát triển các lĩnh vực văn hóa xã hội, chăm lo bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội, giải quyết các vấn đề xã hội bức xúc vừa là mục tiêu vừa là yêu cầu của phát triển bền vững. Nhà nước ưu tiên đầu tư, đồng thời đẩy mạnh xã hội hóa và huy động các nguồn lực quốc tế để phát triển.

Khẩn trương thực hiện Chiến lược an sinh xã hội giai đoạn 2011 - 2020 và Chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo bền vững. Phấn đấu mỗi năm giảm 2% tỷ lệ hộ nghèo và giảm nhanh hơn tại các huyện nghèo nhất. Đẩy mạnh thực hiện các chương trình dạy nghề, nhất là dạy nghề cho lao động nông thôn gắn với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn. Phấn đấu mỗi năm tạo việc làm mới cho 1,6 triệu lao động. Đẩy mạnh phát triển khoa học công nghệ và tăng cường bảo vệ, cải thiện môi trường. Tiếp tục đổi mới đồng bộ cơ chế chính sách và tổ chức bộ máy quản lý khoa học và công nghệ. Phát triển kinh tế tri thức, thúc đẩy tái cơ cấu nền kinh tế và chuyển đổi mô hình tăng trưởng, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước và tăng cường công tác phòng chống tham nhũng. Thực hiện có hiệu quả chương trình cải cách hành chính, chú trọng cải cách thể chế và thủ tục hành chính, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp và nhân dân. Tập trung hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, nhất là thị trường tài chính, tiền tệ và thị trường bất động sản. Từng bước tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh; củng cố thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân. Chủ động phát hiện, ngăn chặn mọi âm mưu chống phá, gây rối, gây bạo loạn của các thế lực thù địch. Thực hiện có hiệu quả Chương trình quốc gia về phòng, chống tội phạm. (Bấm vào đây mời xem toàn văn Báo cáo của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng).

* Chiều 20/10, Quốc hội làm việc tại hội trường, nghe Tờ trình của Chính phủ về Quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020 và kế hoạch sử dụng đất 5 năm (2011 – 2015) cấp quốc gia; các báo cáo về tình hình thực hiện dự toán ngân sách nhà nước năm 2011, dự toán ngân sách nhà nước và phương án phân bổ ngân sách trung ương năm 2012; Chương trình sử dụng vốn trái phiếu Chính phủ 5 năm 2011 - 2015; Chương trình mục tiêu quốc gia 5 năm 2011 – 2015 và báo cáo của các Ủy ban thẩm tra nội dung trên.

Đảm bảo an ninh lương thực

Theo tờ trình của Chính phủ về Quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020 và kế hoạch sử dụng đất 5 năm (2011 – 2015) cấp quốc gia, quy hoạch sử dụng đất có 13 chỉ tiêu. Diện tích đất nông nghiệp của cả nước đến năm 2020 là 26,7 triệu ha, tăng 506.000 ha so với năm 2010. Để đảm bảo mục tiêu an ninh lương thực quốc gia đến năm 2020, quy hoạch đất trồng lúa được xác định là 3,81 triệu ha, giảm 308.000 ha so với năm 2010, trong đó đất chuyên trồng lúa nước (hai vụ trở lên) là hơn 3,2 triệu ha. Quy hoạch đất lâm nghiệp phải đạt trên 16,2 triệu ha để đảm bảo độ che phủ đạt 45%. Ngoài ra, đến năm 2020, diện tích đất rừng sản xuất cần phải giữ là 8,1 triệu ha, diện tích các loại đất nông nghiệp còn lại là 6,67 triệu ha. Các chỉ tiêu này sẽ được Chính phủ và UBND các cấp xét duyệt trong quy hoạch sử dụng đất của các địa phương.

Đối với đất phi nông nghiệp: đến năm 2020, cả nước có 4,88 triệu ha, tăng gần 1,2 triệu ha so với năm 2010. Diện tích đất phi nông nghiệp còn lại gần 2,4 triệu ha sẽ được Chính phủ và UBND các cấp xét duyệt trong quy hoạch sử dụng đất của các địa phương.

Năm 2010, cả nước còn hơn 3,1 triệu ha đất chưa đưa vào sử dụng, trong thời kỳ quy hoạch sẽ khai thác khoảng 1,7 triệu ha sử dụng vào các mục đích nông nghiệp và phi nông nghiệp. Như vậy, đến năm 2020, quỹ đất chưa sử dụng của cả nước còn lại khoảng 1,48 triệu ha.

Hoàn thành trước thời hạn nhiều mục tiêu phát triển thiên niên kỷ

Báo cáo về Chương trình sử dụng vốn trái phiếu Chính phủ và Chương trình mục tiêu quốc gia 5 năm 2011 – 2015 do Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Bùi Quang Vinh trình bày cho thấy việc đầu tư bằng nguồn vốn trái phiếu Chính phủ đã thực hiện đúng các mục tiêu được Quốc hội đề ra, đã bổ sung một lượng vốn lớn (giai đoạn 2003 – 2011 là trên 236,7 nghìn tỷ đồng) cho đầu tư xây dựng các kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội quan trọng của đất nước, cũng như ở các vùng miền núi, biên giới và các vùng khó khăn khác. Để đảm bảo an ninh tài chính quốc gia, cân đối ngân sách và nợ công, Chính phủ trình Quốc hội dự kiến huy động trong 5 năm 2011 – 2015 là 225 nghìn tỷ đồng vốn trái phiếu Chính phủ.

Đối với Chương trình mục tiêu quốc gia, tổng kinh phí huy động thực hiện 12 chương trình giai đoạn 2006 – 2010 là trên 65,3 nghìn tỷ đồng, bằng 3,08% tổng chi ngân sách nhà nước giai đoạn này. Các chương trình này đã góp phần trực tiếp vào việc hoàn thành đạt và vượt mức kế hoạch 7/23 chỉ tiêu chủ yếu của kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2006 – 2010; đưa Việt Nam hoàn thành trước thời hạn nhiều mục tiêu phát triển thiên niên kỷ…

Về Chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2006 - 2010, Ủy ban Tài chính, ngân sách nhận thấy các chương trình đã góp phần tích cực thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội; thể hiện sự ưu tiên phân bổ nguồn lực tài chính quốc gia; huy động đóng góp của xã hội nhằm góp phần giảm nghèo, tạo việc làm, nâng cao chất lượng giáo dục; bảo vệ sức khỏe người dân; hỗ trợ tích cực cho các bộ, ngành, địa phương trong giải quyết những vấn đề bức xúc của xã hội.

Quang Vũ - Chu Thanh vân

Chia sẻ:

doanh nghiệp - Sản phẩm - Dịch vụ Thông cáo báo chí Rao vặt

Các đơn vị thông tin của TTXVN