08:09 08/08/2011

Thiếu kinh phí phòng, chống HIV/AIDS: Đối mặt với thiếu nhân tài vật lực

5 năm qua, nguồn lực tài chính chỉ đáp ứng 50% nhu cầu để phòng chống HIV/AIDS, trong đó có tới 83% nguồn lực là từ viện trợ quốc tế. Dự kiến, tới năm 2015, các nguồn viện trợ quốc tế sẽ giảm mạnh, có thể chỉ bằng 1/2 mức hỗ trợ kinh phí như hiện nay.

5 năm qua, nguồn lực tài chính chỉ đáp ứng 50% nhu cầu để phòng chống HIV/AIDS, trong đó có tới 83% nguồn lực là từ viện trợ quốc tế. Dự kiến, tới năm 2015, các nguồn viện trợ quốc tế sẽ giảm mạnh, có thể chỉ bằng 1/2 mức hỗ trợ kinh phí như hiện nay.

Từ thiếu thuốc ARV…

“Điều mà nhiều người nhiễm HIV/AIDS lo lắng nhất là sắp tới, khi các nhà tài trợ rút hết thì họ còn được cung cấp thuốc ARV đầy đủ và miễn phí như hiện nay không?”, bà Nguyễn Thị Hòa Bình, Giám đốc Trung tâm Hỗ trợ phụ nữ phòng chống HIV/AIDS và chăm sóc sức khỏe sinh sản, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, nói thay nỗi lo lắng của nhiều người nhiễm HIV/AIDS.

Nỗi lo lắng này là hoàn toàn có cơ sở, bởi lẽ ngay khi các nguồn lực hỗ trợ quốc tế chưa bị cắt giảm như hiện nay thì khả năng tiếp cận dịch vụ ARV cho bệnh nhân AIDS vẫn còn kém xa so với nhu cầu thực tế.

Theo một nghiên cứu cấp Bộ (nghiệm thu tháng 7/2010) do Cục Phòng, chống HIV/AIDS và Viện Chiến lược và chính sách y tế, Bộ Y tế, thực hiện tại 8 tỉnh, thành phố: Số bệnh nhân được điều trị bằng ARV mới chỉ đáp ứng được 32% nhu cầu thực tế. Mạng lưới cơ sở cung cấp dịch vụ điều trị ARV đã được thiết lập ở cả ba tuyến trung ương, tỉnh, huyện nhưng phân bố không đồng đều giữa các địa phương. Tại tuyến huyện, độ bao phủ của các cơ sở điều trị ARV mới chỉ đạt 16%, trong đó có 3 tỉnh chưa có cơ sở điều trị ARV ở tuyến huyện là Đồng Nai, Đà Nẵng, Lâm Đồng. Không những thế, tỷ lệ bao phủ của ARV tại các tỉnh hiện rất khác nhau, giao động từ 2,7% như Sơn La đến 76% như ở Khánh Hòa.

Nhân viên y tế chăm sóc, điều trị cho bệnh nhân AIDS tại Khoa Truyền nhiễm - Bệnh viện đa khoa tỉnh Lai Châu. Ảnh: Dương Ngọc – TTXVN


Điều kiện cơ sở vật chất tại các cơ sở cung cấp dịch vụ điều trị ARV còn nhiều hạn chế, nhất là ở tuyến huyện: 14% cơ sở chưa có ghế cho bác sĩ kê đơn và làm bệnh án, 24% chưa được trang bị giường khám bệnh, 48% chưa có bồn rửa tay, 40% cơ sở có kho dược chưa có hệ thống điều hòa để bảo quản thuốc… Bên cạnh đó, nhân lực tham gia cung cấp dịch vụ điều trị ARV còn thiếu về số lượng, yếu về kiến thức, kỹ năng điều trị ARV. Bình quân mỗi cơ sở điều trị chỉ có 6 cán bộ y tế, trong đó 73% là kiêm nhiệm, 1/2 cán bộ y tế trực tham gia công tác điều trị cho bệnh nhân chưa được tập huấn về quy trình điều trị ARV. Đây cũng chính là nguyên nhân dẫn tới sự lúng túng trong việc triển khai điều trị ARV, hạn chế chất lượng dịch vụ.

Đến thiếu tiền

Theo công bố của Tổng Cục thống kê: Số người nhiễm HIV/AIDS trên địa bàn cả nước vẫn gia tăng. Trong tháng 7/2011 phát hiện thêm 1.300 trường hợp nhiễm HIV, nâng tổng số người nhiễm HIV của cả nước tính đến giữa tháng 7/2011 lên 241.200 người, trong đó 97.200 trường hợp đã chuyển sang giai đoạn AIDS và 50.800 người đã tử vong do AIDS.

Theo báo cáo phân tích tính bền vững của chương trình HIV/AIDS tại Việt Nam do Trung tâm Nghiên cứu phát triển Y tế công cộng và Tổ chức Abt Associates Inc thực hiện, cam kết hỗ trợ ngân sách từ các tổ chức quốc tế cho công tác phòng, chống HIV/AIDS tại Việt Nam sẽ giảm mạnh trong giai đoạn 2011- 2015. Đơn cử như Tổ chức PEPFAR, một tổ chức luôn hỗ trợ kinh phí lớn nhất cho công tác phòng, chống HIV/AIDS tại Việt Nam dự kiến cũng sẽ cắt giảm mức hỗ trợ khoảng 10 triệu USD/năm. Cụ thể, năm 2011 PEPFAR hỗ trợ Việt Nam hơn 82 triệu USD, nhưng tới năm 2015 dự kiến mức hỗ trợ sẽ chỉ còn khoảng 40 triệu USD. Ước tính tổng thể đến năm 2015, Việt Nam sẽ thiếu hụt gần 150 triệu USD/năm để phòng, chống HIV/AIDS.

Đây quả là một thách thức rất lớn đối với Việt Nam, bởi lẽ dự báo năm 2015,Việt Nam sẽ có khoảng 300.000 người nhiễm HIV, trong đó có 140.000 người cần được điều trị bằng thuốc ARV (gấp gần 3 lần số người đang được điều trị ARV hiện nay).

Đặc biệt thời gian tới, Việt Nam cần phải nỗ lực nhiều hơn mới có thể đạt được mục tiêu của toàn cầu về phòng chống AIDS, đó là hướng tới mục tiêu 3 không: Không có người mắc HIV mới, không có người chuyển sang giai đoạn AIDS và không có người tử vong do AIDS.

Để đạt được chỉ tiêu đó, Việt Nam phải mở rộng nhanh phạm vi bao phủ dịch vụ phòng, chống HIV/AIDS. Công tác phòng, chống HIV/AIDS vì vậy cần đảm bảo cả về kinh phí, nhân lực, vật lực (phương tiện, xe cộ, máy móc xét nghiệm...). Nhưng thực tế, nhân lực cho hệ thống y tế dự phòng nói chung và hệ thống phòng, chống HIV/AIDS nói riêng đang thiếu trầm trọng. Hệ thống phòng, chống HIV/AIDS mới được tái lập lại, đang được hình thành và củng cố, dù phát triển rất nhanh nhưng cần thời gian để đào tạo nguồn nhân lực. Bên cạnh đó, nhận thức của người dân trong công tác phòng, chống HIV/AIDS, nhận thức của lãnh đạo dù đã được nâng lên nhưng chưa đáp ứng được với tình hình. Nhiều cấp, ngành, địa phương, cá nhân còn chủ quan trong công tác phòng chống AIDS, chưa thực sự coi phòng, chống HIV/AIDS là nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách lâu dài như yêu cầu của Chỉ thị 54-CT/TW của Ban Bí thư về Tăng cường lãnh đạo công tác phòng, chống HIV/AIDS trong tình hình mới.


PGS.TS. Nguyễn Thanh Long, Cục trưởng Cục phòng, chống HIV/AIDS, Bộ Y tế: Việc duy trì nguồn lực trong nước cho các hoạt động phòng, chống HIV/AIDS cần được quan tâm sớm và có giải pháp phù hợp
Tuy công tác phòng, chống HIV đã đạt được nhiều kết quả đáng khích lệ, nhưng có thể nói rằng công cuộc phòng, chống HIV/AIDS còn rất nhiều khó khăn, thách thức như: Một số địa phương vẫn chưa thực sự tạo điều kiện cho việc mở rộng các hoạt động can thiệp giảm tác hại phòng lây nhiễm HIV như chương trình trao đổi bơm kim tiêm và chương trình sử dụng bao cao su. Hai mươi năm sau ngày phát hiện có người nhiễm HIV, Việt Nam vẫn tiếp tục phải đối mặt với sự kỳ thị và phân biệt đối xử. Chúng ta đã có nhiều tiến bộ trong việc mở rộng các dịch vụ dự phòng, song vẫn cần duy trì các nguồn lực này để đảm bảo độ bao phủ đầy đủ các dịch vụ cho các nhóm đối tượng có nguy cơ cao. Hiện nay, nhóm nam tình dục đồng giới, những người tiêm chích ma túy và những phụ nữ tiêm chích ma túy vẫn là những nhóm chưa đạt yêu cầu về độ bao phủ của chương trình. Việc tiếp cận được các dịch vụ dự phòng, chăm sóc và điều trị ARV tại các trại giam, trại tạm giam, trung tâm giáo dục lao động xã hội vẫn còn hạn chế.
Vấn đề hạn chế về số lượng và chất lượng nguồn nhân lực đã gây trở ngại cho việc nhân rộng các mô hình, kinh nghiệm tốt ở cả cấp tỉnh và huyện. Các chương trình phòng, chống HIV/AIDS thiếu các điều kiện để khuyến khích, thu hút và giữ chân các nhân viên có năng lực.

Ông Chu Quốc Ân, Phó Cục trưởng Cục Phòng chống HIV/AIDS, Bộ Y tế: Cần Chương trình mục tiêu quốc gia phòng, chống HIV/AIDS độc lập trong vòng 5 - 7 năm tới
Trong bối cảnh phải mở rộng các hoạt động phòng, chống HIV/AIDS mà nguồn lực giảm dần, có thể giảm chỉ còn một nửa vào năm 2015 thì chỉ có cách tăng nguồn lực từ trong nước hoặc giảm các hoạt động phòng chống AIDS. Nhưng nếu giảm các hoạt động phòng, chống HIV/AIDS thì Việt Nam sẽ không đạt được các mục tiêu mong muốn và sẽ phải đối diện với nguy cơ cao lây nhiễm HIV/AIDS ra cộng đồng. Do đó, khi các nguồn lực quốc tế giảm thì cần phải phải tăng nguồn lực từ Chính phủ và chính quyền các cấp. Giải pháp tốt nhất cho vấn đề này là cần một Chương trình mục tiêu quốc gia phòng, chống HIV/AIDS độc lập ít nhất trong vòng 5 - 7 năm tới.
Song song với hoạt động đó, đòi hỏi nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của công tác phòng, chống HIV/AIDS. Chúng tôi đang tranh thủ nguồn tài trợ quốc tế để sớm hoàn thiện hệ thống phòng, chống HIV/AIDS, cố gắng trong một thời gian ngắn nâng cao năng lực của hệ thống và chất lượng hoạt động phòng, chống HIV/AIDS.

Luật gia Trịnh Thị Lê Trâm, Giám đốc Trung tâm Tư vấn pháp luật và chính sách về y tế, HIV/AIDS: Các bạn nhiễm HIV cần tích cực tham gia công tác phòng, chống HIV/AIDS
Để giải bài toán về nguồn lực cho công tác phòng chống HIV/AIDS trong thời gian tới, bên cạnh việc Chính phủ, các địa phương tăng nguồn ngân sách cho công tác này, còn cần sự hỗ trợ tích cực của các tổ chức xã hội, các doanh nghiệp và cả chính người nhiễm HIV/AIDS.
Điều 39 về Tiếp cận thuốc kháng HIV trong Luật Phòng chống HIV/AIDS quy định: Người nhiễm HIV được Nhà nước tạo điều kiện tiếp cận thuốc kháng HIV thông qua các chương trình, dự án phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội. Người bị phơi nhiễm với HIV, bị nhiễm HIV do tai nạn rủi ro nghề nghiệp, người bị nhiễm HIV do rủi ro của kỹ thuật y tế, phụ nữ nhiễm HIV trong thời kỳ mang thai, trẻ em dưới 6 tuổi nhiễm HIV được Nhà nước cấp miễn phí thuốc kháng HIV.
Đặc biệt, thuốc kháng HIV do ngân sách nhà nước chi trả, thuốc do tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài tài trợ được cấp miễn phí cho người nhiễm HIV tại các cơ sở điều trị HIV/AIDS theo thứ tự ưu tiên sau đây: Trẻ em từ đủ 6 tuổi đến dưới 16 tuổi nhiễm HIV; người nhiễm HIV tích cực tham gia phòng, chống HIV/AIDS; người nhiễm HIV có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn; những người khác nhiễm HIV...
Khi các nguồn tài trợ rút dần, việc đảm bảo cung cấp 100% thuốc ARV miễn phí là rất khó khăn. Do đó, các bạn nhiễm HIV hãy cố gắng công khai danh tính, tích cực tham gia, để được hưởng tiêu chuẩn ưu tiên mà Luật Phòng, chống HIV/AIDS đã quy định.


Phương Liên