11:10 08/11/2012

Sức sống kỳ diệu của văn hóa Nga Xô Viết trên đất Việt

Khó có thể kể hết những ảnh hưởng to lớn và sức sống kỳ diệu của nền văn hóa Nga Xô Viết thuộc nhiều thể loại văn học, âm nhạc, điện ảnh, hội họa… trên đất nước Việt Nam ta trong suốt gần một thế kỷ qua, kể từ khi Cách mạng Tháng Mười vĩ đại thành công (7/11/1917).

Nếu tôi nhớ không nhầm thì lần đầu tiên, bọn trẻ con 9,10 tuổi chúng tôi được nghe kể chuyện nhiều về Liên Xô, được tập nhiều điệu múa, bài hát của Liên Xô là trong Tháng hữu nghị Việt - Trung - Xô (tháng 1/1954), khi chiến cuộc Đông - Xuân 1953 - 1954 đang diễn ra, quân và dân cả nước phải tập trung sức người, sức của để tiến tới tổng phản công, kết thúc cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược và can thiệp của Mỹ.


Đây là dịp thuận lợi để nhân dân ta thể hiện tình đoàn kết, hữu nghị với nhân dân hai nước bạn lớn đã và đang chi viện giúp đỡ Việt Nam đánh thắng quân xâm lược.

 

Tiểu thuyết “Thép đã tôi thế đấy”, tác phẩm ảnh hưởng sâu sắc đến nhiều bạn đọc tại Việt Nam.


Trong tháng hữu nghị này, các hình thức hoạt động được tổ chức rất đa dạng, sinh động, nhất là ở các vùng tự do như Liên khu 4 hay trên các nẻo đường, bộ đội, dân công hối hả ra mặt trận. Hồi ấy cả nhà tôi theo cơ quan bố tôi từ Liên khu 3 sơ tán vào thôn Chòm Bồi, xã Yên Thọ, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa, nằm bên dòng sông Mã. Chiều tối, nhất là vào những đêm trăng sáng vằng vặc, chúng tôi lại hớn hở ra sân đình để tập múa hát tập thể bài “Yêu hòa bình” và say sưa hát các bài như “Nữ anh hùng Dôia”, “Dân Liên Xô vui hát trên đồng hoa”… Qua bài hát, tôi cảm thấy cuộc sống ở Liên Xô sao mà thanh bình, đẹp đẽ, sung sướng thế, biết đến bao giờ thì nước ta mới được sống như vậy. Mấy buổi chiều, bố tôi từ cơ quan trở về nhà cứ ngâm nga, tâm đắc với những bài thơ mà ông mới thuộc lòng.


Lựa lúc vắng người, tôi tò mò giở cuốn sổ tay của cha tôi ra xem thì thấy đó là bài thơ “Đợi anh về” của Ximônốp (Liên Xô) và lời hai bài dân ca nổi tiếng của Nam Tư (Bài ca người du kích, Cho đời tự do), xuất hiện trong cuộc chiến đấu chống phát xít Đức vừa qua, do nhà thơ Tố Hữu dịch. Càng lớn lên, tôi càng cảm thụ được cái hay, làm rung động sâu sắc lòng người của “Đợi anh về”. Có thể nói, bài thơ tuyệt vời của nhà thơ Xô Viết tài ba ấy cùng với “Truyện Kiều” của Nguyễn Du, thơ Tố Hữu v.v… là những món ăn tinh thần không thể thiếu được của lớp lớp chàng trai Việt Nam trên đường ra trận “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”, quyết chiến, quyết thắng quân xâm lược Mỹ và bè lũ tay sai bán nước.


Những áng văn thơ ấy được cất trong ba lô hành trang của anh “bộ đội Cụ Hồ” hay của các bạn trẻ thanh niên xung phong, tiếp thêm sức mạnh vô giá cho họ trên chiến trường. Đến bây giờ đọc lại “Đợi anh về”, chắc hẳn trong chúng ta chẳng mấy ai không rung động, bởi lời thơ chứa chan tình cảm chân thành của người ra đi chiến trận và người ở lại hậu phương:


"Em ơi đợi anh về/Đợi anh hoài em nhé/Mưa có rơi dầm dề/Ngày có buồn lê thê/Em ơi em, cứ đợi./Dù tuyết rơi gió nổi/Dù nắng cháy em ơi/Bạn cũ có quên rồi/Đợi anh về, em nhé!


Vào thời kỳ cuối cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, nhất là từ khi hòa bình lập lại (7/1954), trên miền Bắc thân yêu xuất hiện ngày càng nhiều các tác phẩm văn học, nghệ thuật của Liên Xô, góp phần đem lại một diện mạo mới, một sắc thái mới phong phú cho đời sống tinh thần của xã hội chúng ta. Tôi còn nhớ đầu những năm 60 của thế kỷ 20, tuổi trẻ học sinh Trường phổ thông cấp 3 Biên Hòa (Hà Nam) chúng tôi rất náo nức được xem các bộ phim tâm lý xã hội nổi tiếng của Liên Xô phản ánh hiện thực sâu sắc và thấm đậm chủ nghĩa nhân văn cao cả như: Người thứ 41, Bài ca người lính, Khi đàn sếu bay qua, Phục sinh, Sông Đông êm đềm, Đất vỡ hoang… Cũng trong thời gian nói trên, chúng tôi còn say sưa chép vào sổ tay rồi cùng nhau tập hát những ca khúc trữ tình, cách mạng mang đậm “tính cách Nga” như: Chiều ngoại ô Mátxcơva, Đôi bờ, Cachiusa, Bài ca thời thanh niên sôi nổi, Cây bạch dương…


Những bài hát này mới lạ về lời và đẹp về giai điệu. Hình ảnh cô thôn nữ nước Nga Xô Viết trong ca khúc “Cachiusa” (lời: Mikhain Vaxiliépvích Ixacốpxki; nhạc: Mátvây Blantơ) đứng bên sông Ugơra bờ cao dốc đứng, nơi đây đang là mùa đào, lê, táo nở hoa ngào ngạt hương đã trở nên thân thương, gần gũi với triệu triệu cô gái, chàng trai Việt Nam. Cô một mực chung thủy chờ đợi người yêu đang chiến đấu với quân phát xít Đức. Còn trong ca khúc “Đôi bờ” (lời: G.Mikhailôvích Pôdennia; nhạc: An đờrây Ycốplevích Étxpai), tình yêu lứa đôi được thể hiện trong sự chia ly và khắc khoải đợi chờ. Cô gái Nga giữ trọn niềm tin với người yêu, một chiến sĩ trong đội cảm tử sống chết với quân thù để bảo vệ nhà máy nước của thành phố Cảng Ôđétxa. Anh đã ngã xuống cho thành phố sống mãi. Cô gái vẫn tiếp tục ra bờ sông, nơi cô và anh thường hò hẹn để tưởng nhớ anh, chờ đợi hy vọng. “Đêm dần qua, ánh ban mai đang lan tràn dâng tới/Trên bờ sông soi bóng em dài, xa xa phía chân trời/Mình em riêng thắm thiết yêu anh, với niềm tin thiết tha…”, lời bài hát khiến bao người xúc động...


Bên cạnh đó, các tác phẩm văn học Nga Xô Viết cũng tác động sâu sắc đến tâm tư, tình cảm các thế hệ người Việt Nam, mà trong đó phải kể đến các tiểu thuyết đặc sắc như “Người mẹ” của Macxim Gorơki, “Thép đã tôi thế đấy” của Nhicalai Oxtơrốpxki; “Đội cận vệ thanh niên” của Phađêép, "Một người chân chính” của Bôrít Pôlêvôi, “Mùa gặt” của Nicôlaivêva , “Sông Đông êm đềm”, “Đất vỡ hoang” của Mikhaiin Sôlôkhốp, “Con đường đau khổ” của A. Tônxtôi,“Chiến tranh và hòa bình” của L.Tônxtôi, “Tarát bunba” của Gôgôn, ”Cha và con” của Tuốcghênép, bút ký "Thời gian ủng hộ chúng ta” của Êrenbua, truyện ngắn “Bông hồng vàng” của Pauxtốpxki; các tập thơ kiệt xuất của Puskin, Lécmantốp, Maiacốpxki; Êxênhin…


Tôi muốn nhấn mạnh đến giá trị và ảnh hưởng hết sức to lớn của tiểu thuyết “Thép đã tôi thế đấy” đối với bạn đọc nước ta. 80 năm qua, kể từ khi cuốn sách ra đời (4/1932), các thế hệ trẻ Việt Nam đã quen thuộc với tác phẩm “gối đầu giường” ấy. Lần đầu tiên tôi được đọc cuốn sách này, do Thép Mới và Huy Vân dịch vào năm 1956, khi tôi đang học lớp 4 trường làng. Rồi đến khi học lớp 10, năm 1962 (hệ giáo dục phổ thông 10 năm trước đây) và khi tốt nghiệp đại học (1967) tôi đều đọc nó. Mỗi lần đọc trong một hoàn cảnh, thời điểm khác nhau, nhưng tác phẩm đều đem đến cho tôi một niềm tin, một nghị lực mới. Ở Việt Nam ta, biết bao con người như anh thương binh nặng, tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 307 lẫy lừng Phạm Hồng Sơn nhờ đọc “Thép đã tôi thế đấy” mà có thêm nghị lực phi thường, làm nên việc lớn, bất chấp bệnh tật và số phận éo le của mình.


Trong “Nhật ký Đặng Thùy Trâm” có 3 lần chị nhắc đến nhân vật Paven Coócsaghin với câu nói nổi tiếng: "Cái quý nhất của người ta là sự sống. Đời người chỉ sống có một lần. Phải sống sao cho khỏi xót xa, ân hận vì những năm tháng đã sống hoài, sống phí, cho khỏi hổ thẹn vì dĩ vãng ti tiện và hèn đớn của mình…”. Ngay lúc nằm dưới công sự, nghe tiếng giặc đào kiếm ở trên, cái chết đang rình rập trong gang tấc, Đặng Thùy Trâm vẫn kiên cường, nhớ đến tấm gương Paven để tự động viên mình trong cuộc chiến đấu khốc liệt với quân thù. Rõ ràng là “Thép đã tôi thế đấy” cũng như bao tác phẩm đỉnh cao về nội dung và giá trị nghệ thuật khác đã đem lại vũ khí tinh thần sắc bén, nguồn động viên quý báu cho nhiều người, giúp họ kiên cường, dũng cảm vượt qua muôn vàn khó khăn, trở ngại, tiến lên phía trước.


Khó có thể kể hết những ảnh hưởng to lớn và sức sống kỳ diệu của nền văn hóa Nga Xô Viết thuộc nhiều thể loại văn học, âm nhạc, điện ảnh, hội họa… trên đất nước Việt Nam ta trong suốt gần một thế kỷ qua, kể từ khi Cách mạng Tháng Mười vĩ đại thành công (7/11/1917). Chỉ biết rằng giá trị lâu bền của những tác phẩm đó đã neo sâu, in đậm trong tâm hồn người Việt Nam, tiếp thêm sức mạnh, góp phần xây dựng lối sống, cách sống cao đẹp, phục vụ công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, thực hiện mục tiêu: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

 

Nguyễn Huy Thông (Nhà phê bình văn học)