Nhìn lại sự phát triển của ngành này cũng như những vấn đề cần giải quyết trong thời gian tới để đạt mục tiêu này, TS. Đào Trọng Hiếu, Cục Chế biến và Phát triển thị trường nông sản, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã cuộc chia sẻ với phóng viên TTXVN.
Nhìn lại ngành công nghiệp chế biến thủy sản thời gian qua, ông có đánh giá thế nào?
Chế biến là khâu quan trọng, tạo ra giá trị gia tăng trong chuỗi sản xuất của ngành thủy sản. Công nghiệp chế biến thuỷ sản đã phát triển nhanh, góp phần vào sự tăng trưởng chung của nền kinh tế. Giai đoạn 2010 – 2020, giá trị kim ngạch xuất khẩu thủy sản đạt tốc độ tăng trung bình 5,3%/năm. Năm 2010, kim ngạch xuất khẩu đạt trên 5 tỷ USD, đến năm 2020 đạt trên 8,4 tỷ USD.
Việt Nam đã hình thành và phát triển hệ thống công nghiệp chế biến thủy sản với công nghệ, thiết bị tương đối hiện đại, gắn kết với vùng nguyên liệu. Năm 2020, cả nước có 825 cơ sở chế biến thủy sản quy mô công nghiệp đủ điều kiện xuất khẩu và 3.280 cơ sở chế biến quy mô nhỏ phục vụ chế biến tiêu thụ nội địa. Tổng công suất chế biến xuất khẩu từ 4,5-5 triệu tấn nguyên liệu/năm, tương ứng với gần 2,1 triệu tấn sản phẩm/năm.
Nhiều nhà máy và cơ sở chế biến thuỷ sản đã áp dụng công nghệ và dây chuyền chế biến hiện đại, đạt yêu cầu vệ sinh an toàn thực phẩm. Thủy sản Việt Nam đã được xuất khẩu đến trên 170 quốc gia và vùng lãnh thổ, kể cả những thị trường khó tính như: EU, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Australia… và ngày càng được mở rộng.
Công nghiệp chế biến thủy sản góp phần định hướng và thúc đẩy phát triển sản xuất thủy sản, tạo ra nguồn cung cấp nguyên liệu cho chế biến tiêu thụ nội địa và xuất khẩu; đồng thời, làm thay đổi diện mạo bộ mặt nông thôn. Bởi, ngành chế biến thủy sản đã giải quyết trực tiếp trên 435.000 lao động và hàng triệu lao động sản xuất nguyên liệu, dịch vụ cho ngành.
Nhờ đó, chế biến thủy sản đã hội nhập sâu rộng vào chuỗi cung ứng toàn cầu, tạo ra vị thế vững chắc cho ngành thủy sản Việt Nam trên trường quốc tế. Việt Nam hiện đang đứng thứ 3 thế giới về giá trị xuất khẩu thủy sản, chỉ sau Trung Quốc và Na Uy.
Tuy nhiên, công nghiệp chế biến thủy sản vẫn còn bộc lộ không ít những tồn tại, thách thức. Điển hình là số lượng và chất lượng nguyên liệu đầu vào cho ngành chế biến chưa được đảm bảo làm giảm hiệu quả sản xuất, kinh doanh.
Các doanh nghiệp chế biến xuất khẩu thủy sản hiện nay chủ yếu vẫn sản xuất theo đơn đặt hàng của nước ngoài với trên 50% mặt hàng sơ chế đơn giản, bán thành phẩm với giá trị gia tăng thấp, giá bán thấp… Tỷ trọng sản phẩm thủy sản chế biến giá trị gia tăng còn thấp đạt 22%, các sản phẩm thô, sơ chế vẫn chiếm 78% tỷ trọng giá trị xuất khẩu.
Đến nay, Việt Nam vẫn chủ yếu cung cấp nguyên liệu thô, bán thành phẩm cho các nhà nhập khẩu chế biến tạo ra sản phẩm giá trị gia tăng, gần như chưa xây dựng được thương hiệu riêng cho mặt hàng thủy sản của mình trên thế giới. Phần lớn sản phẩm thủy sản vẫn phải dán nhãn mác, mang tên thương hiệu của các nhà nhập khẩu nước ngoài.
Cùng với đó, tăng trưởng của ngành chế biến thủy sản phụ vẫn thuộc nhiều vào yếu tố về tài nguyên, lao động giá rẻ, trình độ thấp, đa số các cơ sở chế biến chưa đầu tư nhiều vào công nghệ tiên tiến, hiện đại. Các cơ sở chế biến nước ta phần lớn là quy mô nhỏ và vừa, chiếm trên 90% số cơ sở. Doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động phổ thông dẫn đến năng suất lao động không cao.
Vừa qua, Thủ tướng Chính phủ đã Phê duyệt Đề án phát triển ngành chế biến thủy sản giai đoạn 2021 – 2030; trong đó, có đặt mục tiêu tỷ trọng giá trị xuất khẩu sản phẩm thủy sản chế biến giá trị gia tăng đạt trung bình trên 40%. Vậy, ông đánh giá thế nào về con số này?
Năm 2020, tỷ trọng giá trị xuất khẩu sản phẩm thủy sản chế biến giá trị gia tăng chỉ chiếm khoảng 22% trong tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu; trong đó, tôm 41,7%; cá tra 2,7%; cá ngừ 52,1%; nhóm sản phẩm từ mực, bạch tuộc 10,5%.
Con số này đã phản ánh thực trạng là chúng ta vẫn chủ yếu xuất khẩu các sản phẩm thủy sản dưới dạng thô, sơ chế, bán thành phẩm hoặc nguyên liệu cung cấp cho các nhà nhập khẩu mà chưa qua chế biến sâu để nâng cao giá trị gia tăng nên hiệu quả kinh tế mang lại chưa cao.
Chính vì vậy, mục tiêu đến năm 2030, tỷ trọng giá trị xuất khẩu sản phẩm thủy sản chế biến sâu, có giá trị gia tăng đạt trung bình trên 40%; trong đó: tôm đạt 60%, cá tra đạt 10%, cá ngừ đạt 70%, mực và bạch tuộc đạt 30%, thủy sản khác đạt 30%.
Mục tiêu này hoàn toàn khả thi nếu các doanh nghiệp chú trọng đầu tư công nghệ, thiết bị và mở rộng thị trường tiêu thụ; phù hợp với định hướng cơ cấu lại ngành nông nghiệp và thủy sản theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững.
Triển khai đề án sẽ xây dựng trung tâm đổi mới sáng tạo đặt tại các trung tâm nghề cá lớn làm động lực thúc đẩy ngành chế biến thủy sản. Các trung tâm này sẽ có nhiệm vụ như thế nào, thưa ông?
Việc hình thành các trung tâm này nhằm mục đích nghiên cứu, dẫn dắt, kết nối và cung cấp các dịch vụ đổi mới sáng tạo hiệu quả và hỗ trợ nghiên cứu và phát triển phục vụ cho các doanh nghiệp chế biến thủy sản. Trung tâm này sẽ giúp cho việc định hướng chiến lược, nắm bắt xu thế về khoa học và công nghệ trên thế giới; đào tạo, tập huấn, hợp tác chuyển giao và kết nối đầu tư trong lĩnh vực đổi mới công nghệ, thiết bị, nâng cao năng lực cho các doanh nghiệp .
Các trung tâm này cũng sẽ đưa các công nghệ mới đến gần hơn với doanh nghiệp và người dân, ươm tạo công nghệ, tối ưu hóa, trình diễn và chuyển giao công nghệ, khuyến khích tinh thần sáng tạo trong doanh nghiệp và người dân.
Cùng đó, hỗ trợ hình thành các giải pháp công nghệ tiên tiến, kích thích các ý tưởng sáng tạo; kết nối, thực hiện các dịch vụ khoa học công nghệ; đào tạo, tập huấn, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực... Qua đó, tối ưu, hoàn thiện các mô hình giải pháp đổi mới sáng tạo, phát triển sản phẩm, giải pháp đầu ra hiệu quả, có khả năng ứng dụng cao.
Ông đánh giá thế nào về hệ thống kho lạnh bảo quản thủy sản hiện nay và cần có sự đầu tư hệ thống này thế nào nhằm góp phần giảm tỷ lệ tổn thất sau thu hoạch?
Năm 2020, tổng số cơ sở chế biến thủy sản quy mô công nghiệp là 825 cơ sở, quy mô nhỏ là 3280 cơ sở. Trong số đó, các cơ sở chế biến thủy sản đông lạnh chiếm 82%, các cơ sở còn lại cũng sử dụng lạnh làm kho bảo quản. Hiện tổng công suất cấp đông thủy sản khoảng 2 triệu tấn, tổng công suất kho lạnh là 1,5 triệu tấn. Hầu hết các cơ sở chế biến đều có hệ thống cấp đông, kho lạnh bảo quản, kho lạnh sản xuất đi kèm. Do vậy, việc tổn thất sau thu hoạch khi đưa vào các nhà máy chế biến là không đáng kể.
Tuy nhiên, do phân bố các cơ sở phân tán trên toàn quốc nên đôi khi xảy ra hiện tượng thiếu kho lạnh bảo quản cục bộ tại từng doanh nghiệp, địa phương vào thời điểm nhất định khi có sự biến động của nguồn cung và thị trường tiêu thụ. Việc tổn thất sau thu hoạch hiện nay xảy ra chủ yếu ở công đoạn sơ chế, bảo quản nguyên liệu hải sản trên các tàu khai thác xa bờ.
Chính vì vậy, để giảm tổn thất sau thu hoạch, cần đầu tư công nghệ, thiết bị tiên tiến phục vụ bảo quản lạnh, tiến tới bảo quản đông trên các tàu khai thác.
Theo ông, vấn đề thu hút doanh nghiệp đầu tư cũng như hình thành, phát triển cụm công nghiệp có sự liên kết, chuỗi giá trị cần được triển khai như thế nào?
Để phát triển công nghiệp chế biến cần phải có sự phát triển đồng bộ của cả hai khâu trước chế biến và sau chế biến. Cụ thể ở đây là nguồn nguyên liệu phục vụ chế biến và đầu ra, thị trường tiêu thụ sản phẩm.
Để thúc đẩy phát triển công nghiệp chế biến theo tôi cái khó nhất là phải tạo ra được sự đồng bộ của khâu cung ứng nguồn nguyên liệu và khâu tiêu thụ sản phẩm.
Các doanh nghiệp chưa chủ động được nguồn cung nguyên liệu như: số lượng, thời điểm, chủng loại, chất lượng, nguồn gốc xuất xứ, hay giá mua nguyên liệu cao... đã ảnh hưởng rất nhiều trong việc doanh nghiệp muốn đầu tư vào lĩnh vực chế biến thủy sản.
Sự liên kết giữa các khâu trong chuỗi giá trị sản xuất – chế biến – tiêu thụ thủy sản nhìn chung phần lớn thiếu chặt chẽ. Ngoại trừ một số ngành hàng đã tổ chức tốt khâu chế biến gắn với sản xuất nguyên liệu như: cá tra, tôm nuôi và một số doanh nghiệp, tập đoàn lớn có năng lực đã liên kết tốt với người nông dân như: Tập đoàn thủy sản Minh Phú, Công ty cổ phần Vĩnh Hoàn...
Trước thực trạng sản xuất manh mún, Chính phủ đã ban hành hàng loạt các cơ chế chính sách nhằm khuyến khích sản xuất theo chuỗi liên kết. Điển hình như Nghị định số 98/2018/NĐ-CP của Chính phủ về chính sách khuyến khích phát triển hợp tác, liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp để tăng cường liên kết giữa các bên. Hay, Nghị quyết số 53/NQ-CP năm 2019 của Chính phủ về giải pháp khuyến khích, thúc đẩy doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp hiệu quả, an toàn và bền vững...
Bên cạnh các chính sách do Trung ương ban hành, các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương cũng cần tiếp tục nghiên cứu, rà soát ban hành các cơ chế chính sách riêng. Từ đó, thúc đẩy phát triển công nghiệp chế biến của địa phương, góp phần giảm chi phí sản xuất, nâng cao giá trị gia tăng cho sản phẩm thủy sản. Bên cạnh đó, nghiên cứu xây dựng chính sách phát triển riêng có tính đột phá, sáng tạo, độc đáo; tạo lập môi trường đầu tư thông thoáng cho công nghiệp chế biến, bảo quản thủy sản.
Cơ quan chức năng xây dựng khung pháp lý và có chính sách hỗ trợ giao dịch đất nông nghiệp; cho phép mua, thuê lại đất của nông dân để cho doanh nghiệp đầu tư vào sản xuất chuyên canh nông sản hàng hóa quy mô lớn đảm bảo nguồn cung cấp nguyên liệu cho chế biến.
Xin cảm ơn ông!