Nghịch lý thức ăn chăn nuôi - Phụ thuộc nguyên liệu nhập khẩu

Theo các chuyên gia nông nghiệp, việc phụ thuộc nguyên liệu nhập khẩu khiến cho giá thức ăn chăn nuôi trong nước liên tục biến động, ảnh hưởng đến lợi nhuận của ngành chăn nuôi. Đây là bài toán cần sớm có lời giải để ngành chăn nuôi nước ta phát triển bền vững.

 

Phụ thuộc nguyên liệu nhập khẩu

 

Từ nhiều năm nay, Việt Nam vẫn phải nhập khẩu một lượng lớn nguyên liệu sản xuất thức ăn chăn nuôi. Theo đó, trong số 12,5 triệu tấn thức ăn chăn nuôi (TĂCN) tiêu thụ mỗi năm thì lượng nhập khẩu chiếm tới trên 70%, tương đương 9 triệu tấn. Thậm chí, hàng năm, số tiền nhập khẩu nguyên liệu TĂCN còn nhiều hơn giá trị kim ngạch xuất khẩu gạo.


Mất cân đối nguồn nguyên liệu


Theo Hiệp hội TĂCN Việt Nam, trong số các nguyên liệu sản xuất TĂCN thì Việt Nam mới chủ động được cám gạo còn các nguyên liệu khác phần lớn phụ thuộc nhập khẩu. Cụ thể, năm 2013, trong số 9 triệu tấn nguyên liệu nhập dùng để sản xuất TĂCN thì phải nhập khẩu 4 triệu tấn khô dầu đậu tương, 1,9 triệu tấn ngô và các thành phần khác như: cám gạo, bột xương cá, bột mỳ...

Sản xuất thức ăn chăn nuôi phụ thuộc phần lớn vào nguyên liệu nhập khẩu. Ảnh: Danh Lam - TTXVN


Riêng năm 2013, nhập khẩu TĂCN và nguyên liệu đạt khoảng 4 tỉ USD. Theo dự báo của Bộ Công Thương, trong 2 năm tới, tốc độ tăng trưởng nhập khẩu mặt hàng này trung bình vẫn tăng 20% mỗi năm.


Ông Nguyễn Văn Trọng, Phó Cục trưởng Cục Chăn nuôi (Bộ NN&PTNT) cho rằng, việc phụ thuộc nhập khẩu là do Việt Nam chưa sản xuất được những thức ăn bổ sung. Bên cạnh đó, sản xuất nông nghiệp trong nước cũng đang có sự mất cân đối. Theo đó, do tập trung đầu tư sản xuất nên có năm, thóc, gạo xuất khẩu tiêu thụ khó khăn nhưng mỗi năm Việt Nam phải nhập hàng triệu tấn ngô, đỗ tương… do sản xuất trong nước chưa đáp ứng được.


Ông Lee Swee Heng, Tổng giám đốc Công ty TNHH Wilmar Agro Việt Nam (kinh doanh cám gạo để sản xuất TĂCN) cho rằng: “Nguồn cung nguyên liệu trong nước quá ít khiến nhiều doanh nghiệp phải nhập. Chính vì vậy, Nhà nước, doanh nghiệp phải làm việc với nhau để có những chính sách khuyến khích nông dân sản xuất quy mô lớn, tạo nguồn cung ổn định, có chất lượng thì mới tránh được tình trạng phụ thuộc quá nhiều vào nguyên liệu nhập khẩu như hiện nay”.


Tuy nhiên, cũng không ít ý kiến cho rằng ngành chăn nuôi Việt Nam phải phụ thuộc rất nhiều vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu do đang bị doanh nghiệp thao túng. “Các doanh nghiệp sản xuất TĂCN có vốn đầu tư nước ngoài chỉ muốn bán được nhiều TĂCN thành phẩm để thu lợi nhuận chứ không muốn sản xuất thức ăn đậm đặc từ nguyên liệu có sẵn trong nước như thóc, gạo”, ông Trọng nói.


Đẩy mạnh sản xuất tại chỗ


Để hạn chế phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu nước ngoài, Bộ NN&PTNT cho biết, sẽ khuyến khích mở rộng diện tích trồng đậu tương, ngô… trong nước để giảm nhập khẩu nguyên liệu từ nước ngoài. Tuy nhiên, để làm được điều này, cần sớm ứng dụng công nghệ mới để tăng năng suất cây trồng. Theo Hiệp hội TĂCN, diện tích trồng đậu tương cả nước hiện có gần 100.000 ha nhưng năng suất rất thấp, chỉ đạt 1- 1,2 tấn/ha. Trong khi đó, nhiều nước trên thế giới đạt năng suất 4- 4,5 tấn/ha. Tương tự, diện tích trồng ngô ở mức trên 1 triệu ha, năng suất trung bình đạt 4 tấn/ha, trong khi các nước khác từ 8 tấn/ha trở lên.


Theo ông Nguyễn Văn Trọng, Phó Cục trưởng Cục Chăn nuôi, Bộ NN&PTNT đã chỉ đạo các đơn vị đẩy mạnh phát triển các giống vật nuôi sử dụng nguồn nguyên liệu TĂCN trong nước. Ví dụ như phát triển đàn gia cầm thì có thể tận dụng nguồn thóc, gạo tại chỗ. Trong đó, thức ăn cho vịt có thể sử dụng tới 60% là thóc. “Sử dụng nguồn nguyên liệu tại chỗ sẽ giảm được giá thành chăn nuôi”, ông Trọng nhấn mạnh.


Bộ NN&PTNT cũng định hướng chuyển đổi một số diện tích trồng lúa sang trồng ngô. “Dự định sẽ chuyển 2 triệu ha sang trồng ngô nhưng cũng khó khăn vì không phải vùng nào cũng trồng được ngô”, ông Trọng nói. Theo Cục Trồng trọt, trong dự thảo Chiến lược phát triển ngành trồng trọt đến năm 2020, Cục Trồng trọt đã đề xuất ưu tiên tăng diện tích trồng ngô từ 1,1 triệu ha lên 1,5- 2 triệu ha, có áp dụng thâm canh, đưa tiến bộ kỹ thuật, giống mới vào sản xuất. Theo đó, “sẽ chuyển một phần diện tích lúa kém hiệu quả sang trồng ngô, đồng thời điều chuyển thời vụ cây trồng vụ hè thu, tăng diện tích ngô đông sớm. Với vùng đồng bằng sông Cửu Long, Ðông Nam Bộ, nơi có năng suất ngô cao, khả năng cạnh tranh được với ngô nhập khẩu, có thể chuyển một phần diện tích lúa vụ đông xuân sang chuyên canh ngô”, ông Phạm Ðồng Quảng, Phó Cục trưởng Cục Trồng trọt cho biết.


Về thức ăn xanh cho đại gia súc, Cục Trồng trọt cho biết, các địa phương có nhu cầu thức ăn xanh sẽ mở rộng diện tích trồng cỏ ở vùng miền núi, nơi hoang hóa, tận dụng triệt để đất lúa, đất rừng kém hiệu quả. Thức ăn xanh có thể đa dạng hóa từ trồng cỏ đến trồng ngô dày, ngô nếp, ngô rau; hoặc đưa công nghệ vào chế biến rơm rạ, thân ngô, bã mía làm thức ăn hỗn hợp cho chăn nuôi bò sữa, đại gia súc.


Theo các chuyên gia nông nghiệp, để xây dựng được vùng nguyên liệu dùng để sản xuất thức ăn chăn nuôi thì Nhà nước cần sớm có các hỗ trợ nông dân chuyển đổi cây trồng. Nhà nước và các tổ chức tín dụng nên có những chính sách ưu đãi cho doanh nghiệp vay vốn đầu tư tạo vùng nguyên liệu. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp chế biến TĂCN phải là cầu nối, ký kết hợp đồng tiêu thụ để người trồng có thể hoàn toàn yên tâm sản xuất.


Ngoài ra, các viện nghiên cứu, các nhà khoa học cần tập trung nghiên cứu các công thức phối trộn thức ăn phù hợp điều kiện chăn nuôi nước ta, sớm đưa cây trồng biến đổi gen vào sản xuất; khuyến khích chế biến bột cá; khuyến khích nghiên cứu tạo nguyên liệu mới như: thức ăn bổ sung, thức ăn phụ gia.

Hữu Vinh

Chia sẻ:

doanh nghiệp - Sản phẩm - Dịch vụ Thông cáo báo chí Rao vặt

Các đơn vị thông tin của TTXVN