Trái với lo ngại của nhiều người về việc giá cả tiếp tục tăng sau khi lương cơ bản tăng từ 1/5, thị trường lại khá ổn định. Một số mặt hàng thiết yếu, đặc biệt là rau, củ và thực phẩm có chiều hướng chỉ tăng nhẹ hoặc chững lại, thậm chí giảm giá. Trung tâm Thông tin thương mại và công nghiệp thuộc Bộ Công Thương đưa ra dự báo, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 5 sẽ tăng chậm lại, chỉ tăng 1,2% so với mức 3,32% của tháng 4.
Giá giảm do "ngấm thuốc" chữa
Theo Tổ điều hành thị trường, trong tháng 5, thị trường hàng hóa trong nước tiếp tục chịu tác động từ nhiều yếu tố khách quan và chủ quan: Giá nhiều mặt hàng nguyên nhiên vật liệu trên thế giới đang diễn biến phức tạp, đặc biệt là giá xăng dầu, sẽ tiếp tục ảnh hưởng tới giá nguyên nhiên liệu nhập khẩu cũng như gây sức ép tăng giá trên thị trường hàng hóa. Tình hình thời tiết còn diễn biến phức tạp, dịch bệnh đã từng bước được khống chế nhưng vẫn diễn ra trên diện rộng khiến người chăn nuôi chưa dám tái đàn mạnh. Cung ứng điện trong mùa khô có thể ảnh hưởng tới sản xuất của một số ngành. Việc tăng mức lương tối thiểu áp dụng từ 1/5 cùng với tác động của mặt bằng giá mới (nguyên nhiêu liệu) tiếp tục làm gia tăng chi phí đầu vào. Kỳ nghỉ lễ dài (30/4 - 1/5) làm gia tăng nhu cầu du lịch và ăn uống ngoài gia đình (...)
Tuy nhiên, nhiều ý kiến cho rằng tốc độ tăng CPI trong tháng 5 sẽ chậm lại so với tháng 4. Lý do chính được dẫn ra là giá cả tăng quá mạnh thời gian qua đã tác động đến nhu cầu tiêu dùng làm sức mua chậm hẳn lại nên để tiêu thụ được hàng, các nguồn cung cấp và hệ thống phân phối sẽ phải tìm cách khống chế việc tăng giá trong thời gian tới. Theo thống kê, tổng hợp từ Bộ Công Thương và Bộ Tài chính, mặc dù giá phân bón, thức ăn chăn nuôi và một số mặt hàng thực phẩm như thịt heo, thịt gà, thủy hải sản… vẫn còn khả năng tăng nhưng xu hướng chững lại và bắt đầu giảm giá đã có thể thấy rõ ở nhiều mặt hàng từ giữa tháng 4 như gạo, đường, rau xanh, thép…
Bên cạnh đó, các giải pháp của Chính phủ về kiềm chế lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô sau một thời gian triển khai bắt đầu phát huy tác dụng. Cụ thể, với việc thực hiện Nghị quyết 11, đến nay, thị trường ngoại hối ổn định hơn, tình trạng chênh lệch tỷ giá, khan hiếm ngoại tệ đã bước đầu được giải quyết. Thị trường vàng cũng đã ổn định hơn. Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Văn Giàu nhấn mạnh, tất cả các biện pháp điều hành chính sách tiền tệ phải bám sát mục tiêu của Chính phủ về kiềm chế lạm phát. Ngân hàng Nhà nước đã và sẽ tiếp tục kiên quyết bảo vệ quan điểm sử dụng các biện pháp quyết liệt để giảm tổng cầu và điều hành các lãi suất tác động vào thị trường theo đúng hướng. TS. Cao Sỹ Kiêm, thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách tiền tệ quốc gia, Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam cũng cho rằng, một trong các nguyên nhân giúp thị trường bình ổn là quản lý mạnh tay của Nhà nước khiến khối lượng tín dụng đưa ra ít. Cùng với đó, các chính sách thắt chặt quản lý thị trường vàng, ngoại tệ khống chế nhập siêu cũng góp phần giúp tốc độ tăng giá giảm dần...
Hợp lý giữa lạm phát và tăng trưởng
Người dân TP Hồ Chí Minh mua thực phẩm trong siêu thị bình ổn giá Coopmart. Ảnh: Thế Anh - TTXVN |
Tuy nhiên, việc điều hành chính sách kinh tế nhằm giảm lạm phát cũng có thể để lại những hệ lụy. Chẳng hạn, việc thắt chặt chính sách tiền tệ đột ngột có thể gây khó cho sản xuất kinh doanh. Theo Bộ Công Thương, việc thực hiện chính sách chặt chẽ, thận trọng trong lĩnh vực tiền tệ và cắt giảm đầu tư công; giá cả nguyên vật liệu nhập khẩu tăng; chi phí phục vụ sản xuất tăng đã ảnh hưởng nhiều đến sản xuất và tiêu thụ của một số ngành. Tháng 4, tăng trưởng sản xuất nhiều sản phẩm chủ yếu chậm hơn so với tháng 3 và cùng kỳ năm trước...
TS Cao Sỹ Kiêm cho biết, vì tốc độ tăng trưởng tín dụng đang từ 38%/năm của những năm trước nay giảm xuống chỉ còn 18% khiến nguồn vốn ít hơn, lãi suất cao hơn, gây khó khăn cho cả khả năng tiếp cận và sử dụng vốn của doanh nghiệp (DN). Vì vậy, TS Cao Sỹ Kiêm cho rằng "không nên thắt chặt thêm tiền tệ vì lãi suất đã quá cao. Trong suốt thời kỳ tăng trưởng GDP trên 7%/năm, chưa bao giờ tốc độ tăng trưởng tín dụng dưới 20%, tổng phương tiện thanh toán dưới 16%. Nếu thắt chặt tiền tệ hơn nữa, lãi suất cao sẽ đẩy chi phí DN lên và như vậy, lạm phát sẽ cao hơn". Tại thời điểm này, TS Cao Sỹ Kiêm cho biết mặt bằng lãi suất cho vay đối với sản xuất đang đứng quanh mức bình quân 18 - 20%/năm, lãi suất cho vay tiêu dùng đã vọt lên 24 - 25%/năm. Với mức này, người vay sợ không làm ra đủ lợi nhuận để trả lãi, ngân hàng (NH) cũng ngại cho vay vì nguy cơ nợ xấu cao. Việc cho vay khó khăn đến mức, một số NH đang lo ngại không đạt được chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng cả năm dưới 20% như mục tiêu của NH Nhà nước.
Theo TS Cao Sỹ Kiêm, việc kiềm chế lạm phát không chỉ phụ thuộc vào chính sách tiền tệ. Khi chính sách tiền tệ đã hết dư địa, cần tăng cường các giải pháp đồng bộ khác: "Giảm đầu tư công chưa được bao nhiêu, bội chi ngân sách vẫn lớn, nhập siêu chưa giảm, đặc biệt là hàng xa xỉ vẫn nhập nhiều, công tác quản lý về giá cả chưa có nhiều chuyển biến. Nếu các giải pháp này không được triển khai tốt, gây sức ép thắt chặt tiền tệ quá giới hạn sẽ ảnh hưởng lớn đến sản xuất”. Bộ Kế hoạch - Đầu tư cho biết, do phải tập trung mục tiêu kiềm chế lạm phát nên tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế bị ảnh hưởng. Theo đó mục tiêu tăng trưởng GDP cả năm 2011 được điều chỉnh từ mức 7 - 7,5% (theo kế hoạch từ đầu năm) xuống mức 6,5% để bảo đảm phát triển bền vững.
Các chuyên gia kinh tế cũng lưu ý, việc chống lạm phát không nên chỉ áp dụng với những giải pháp có tính chất tình thế. Để giải bài toán lạm phát, phải kết hợp giải quyết những vấn đề dài hạn, nền tảng – đó là mô hình tăng trưởng hiệu quả, có chiều sâu, cơ cấu kinh tế phù hợp, có hàm lượng chất xám cao... Lạm phát ở nước ta thường cao hơn các nước khác chính bởi những khiếm khuyết nội tại của nền kinh tế: Bội chi, nhập siêu cao liên tục trong nhiều năm. Ngoài ra, mô hình tăng trưởng cũng có vấn đề do chủ yếu phát triển theo chiều rộng, thiếu chiều sâu, cơ cấu kinh tế không hợp lý, nông nghiệp quảng canh, chủ yếu xuất khẩu nguyên liệu thô, không có mũi nhọn...