Doanh nghiệp nhà nước chưa được như kỳ vọng

Để đảm bảo định hướng XHCN trong nền kinh tế ở nước ta, ngay từ những năm đầu đổi mới, Đảng và Nhà nước đã xác định kinh tế nhà nước (KTNN) giữ vai trò chủ đạo, thông qua hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước (DNNN). Qua đó, để tăng cường vai trò của DNNN, Đảng và Nhà nước đã chủ trương cơ cấu lại khối DN này bằng việc giao, khoán, bán cho thuê; cổ phần hóa (CPH) và thành lập các tập đoàn, tổng công ty (TCT) với kỳ vọng nâng cao năng lực cạnh tranh trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, qua thực tế triển khai, khối DN này chưa đạt được như kỳ vọng.

Bước đầu thành công


Thực tế cho thấy, quá trình tái cấu trúc DNNN được khởi phát với tên gọi đổi mới và sắp xếp lại các DNNN từ đầu thập niên 90, với chủ trương buộc giải thể, cho thuê, sáp nhập một số DNNN hoạt động kém hiệu quả; tiến hành CPH một bộ phận lực lượng DNNN; xây dựng các tổng công ty (90 và 91); thí điểm tổ chức tập đoàn kinh tế nhà nước...

May hàng xuất khẩu tại Tổng công ty Dệt may Gia Định. Ảnh: Thanh Vũ-TTXVN.


Trước tiên phải khẳng định kết quả sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả DNNN đạt được trong thời gian qua là kết quả của quá trình đổi mới tư duy, nhận thức về vị trí, vai trò của KTNN và DNNN trong quá trình hình thành, phát triển và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XNCN. Trên cơ sở xác định rõ những ngành, lĩnh vực nhà nước cần tiếp tục nắm giữ, việc sắp xếp, phân loại DNNN được thực hiện một cách đồng bộ và thống nhất trong cả nước.

Chỉ trong giai đoạn từ năm 2001 đến tháng 10/2011, cả nước đã sắp xếp được 4.757 DN (không kể chuyển thành công ty TNHH một thành viên); trong đó CPH 3.388 DN và bộ phận DN; giao 189 DN, bán 135 DN; khoán kinh doanh, cho thuê 30 DN; sáp nhập 427 DN; hợp nhất 110 DN; giải thể 220 DN; phá sản 56 DN... Việc sáp nhập, hợp nhất chủ yếu đối với những DN kinh doanh trong cùng lĩnh vực, ngành nghề đã làm giảm đầu mối, tăng quy mô DN, tạo điều kiện cho DN tiếp tục đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh và sử dụng hiệu quả hơn cơ sở vật chất hiện có. Hầu hết các DN sau sáp nhập, hợp nhất đều hoạt động hiệu quả hơn. Tuy nhiên, một số DN hoạt động kém hiệu quả khi sáp nhập vào DN khác lại vô hình trung làm ảnh hưởng xấu đến hoạt động của DN nhận sáp nhập.

Đáng chú ý, một số DN của địa phương có khó khăn về tài chính, thị trường... đã được UBND tỉnh thống nhất với các tập đoàn, TCT nhà nước có ngành nghề kinh doanh tương đồng hoặc có tiềm lực về tài chính để chuyển về các tập đoàn, TCT này thực hiện tái cơ cấu, phát triển sản xuất kinh doanh trước khi CPH. Nhiều DN sau khi về các tập đoàn, TCT đã được giải quyết khó khăn về vốn, thị trường, công nghệ, hiệu quả hoạt động tốt hơn như Nông trường Thạch Thành, Thạch Quảng và Vân Du thuộc UBND tỉnh Thanh Hóa; Công ty Nông, Lâm, Công nghiệp Hà Tĩnh chuyển về Tập đoàn Công nghiệp Cao su Việt Nam.

Cũng nhờ sắp xếp lại, cơ cấu DNNN đã được điều chỉnh một bước cơ bản, số lượng DN giảm mạnh, từ 5.655 DN vào năm 2011 chỉ còn 1.309 DN vào tháng 10/2011. Các DNNN tập trung hơn vào những ngành, lĩnh vực then chốt, địa bàn quan trọng mà Nhà nước cần nắm giữ hoặc lĩnh vực mà DN thuộc các thành phần kinh tế khác ít hoặc chưa tham gia. Quy mô DNNN được nâng lên, chủ yếu là vừa và lớn, có cơ cấu hợp lý hơn. Phần lớn DNNN hoạt động có lãi, góp phần ổn định và chủ động nguồn thu của ngân sách nhà nước, bảo đảm an sinh xã hội và xóa đói giảm nghèo.

Tồn tại còn nhiều

Theo đánh giá của Ban Chỉ đạo Đổi mới và Phát triển DN, tuy đạt được nhiều kết quả tích cực nhưng công tác sắp xếp, chuyển đổi sở hữu của DNNN trong những năm qua vẫn còn khá nhiều tồn tại.

Yếu tố đầu tiên liên quan đến một số cơ chế, chính sách ban hành thường chậm, chưa kịp thời giải đáp, tháo gỡ được yêu cầu của thực tiễn, do vậy đã ít nhiều giảm hiệu quả của một số DNNN sau khi thực hiện “tái cơ cấu”. Cụ thể đã hơn một năm kể từ ngày toàn bộ công ty nhà nước chuyển sang hoạt động theo hình thức công ty TNHH một thành viên nhưng đến nay vẫn chưa ban hành quy định về tổ chức thực hiện quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu nhà nước, về thành lập, tổ chức lại, giải thể đối với loại công ty này. Các quy định về quản lý tài chính, lao động, tiền lương vẫn áp dụng như trước khi chuyển đổi.

Đánh giá cũng cho thấy vẫn còn nhiều DNNN hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh thuần túy mà các thành phần kinh tế khác tham gia có hiệu quả, nhất là trong lĩnh vực xây lắp, vật liệu xây dựng, thương mại, du lịch.

Trong khi đó, hiệu quả kinh doanh và sức cạnh tranh của DNNN chưa tương xứng với nguồn lực được phân bổ. Lực lượng DNNN tuy đang chiếm giữ một nguồn lực rất lớn của nền kinh tế, nhưng sự đóng góp cho nền kinh tế không tương xứng, xét về tỷ trọng đóng góp cho GDP (khoảng 27-28% GDP), giải quyết việc làm, hiệu quả sử dụng các yếu tố sản xuất (đất đai, tiền vốn, nguyên vật liệu...) kém hơn các loại hình doanh nghiệp khác... Nhiều DN chưa tách bạch hoạt động sản xuất kinh doanh và hoạt động công ích. Ngay cả một số tập đoàn, TCT cũng có số lỗ lớn, chủ yếu do cơ chế giá và làm chính sách.


Mặt khác, trong nhiều DNNN, sự lãng phí, thất thoát nguồn lực còn lớn, nhất là trong các ngành khai thác, chế biến, xuất khẩu tài nguyên, khoáng sản, trong đầu tư xây dựng cơ bản, mua sắm, nhập khẩu thiết bị, vật tư. Cùng với năng suất lao động thấp, tình trạng lãng phí, thất thoát đã làm chi phí cho một đơn vị sản phẩm, dịch vụ của DNNN tăng cao, giảm đáng kể hiệu quả và năng lực cạnh tranh của DN. Đáng chú ý, một số vụ việc tiêu cực, thậm chí vi phạm pháp luật nghiêm trọng ở DNNN gây hậu quả không nhỏ về kinh tế, làm ảnh hưởng xấu đến uy tín của DNNN.

TS Trần Du Lịch, Ủy viên Ủy ban Kinh tế Quốc hội, Phó trưởng đoàn chuyên trách Đoàn Đại biểu Quốc hội TP.HCM cho rằng DNNN chỉ nên đầu tư vào những lĩnh vực mà các thành phần kinh tế khác không đầu tư, hoặc đầu tư không hiệu quả, không phải đầu tư theo phong trào ra ngoài ngành khiến tiềm lực của DNNN bị ảnh hưởng như thời gian qua. Trong khi đó nhiều lĩnh vực kinh tế cần vai trò của nhà nước thì đang trống. Điển hình là khâu lưu thông phân phối hiện nay rất cần vai trò chi phối của nhà nước.

Không những thế, một số tập đoàn, TCT hoạt động theo mô hình công ty mẹ - công ty con nhưng quản lý nội bộ còn yếu kém. Cụ thể như nhiều đơn vị chưa hoàn thiện quy chế quản lý, vẫn còn hiện tượng công ty mẹ với tư cách là chủ sở hữu, cổ đông lớn can thiệp bằng mệnh lệnh hành chính vào hoạt động của công ty con. Việc thuê tổng giám đốc điều hành DN cũng mới chỉ triển khai được ở 3 đơn vị nhưng chưa có sơ kết và chưa thấy kết quả rõ rệt. Không ít TCT, giữa chủ tịch HĐQT và tổng giám đốc thiếu thống nhất trong quản lý, điều hành DN.

Ngoài ra, do công tác kiểm tra, giám sát, đánh giá hiệu quả hoạt động của DNNN và hiệu quả quản lý, điều hành của bộ máy quản lý DNNN ở nhiều nơi chưa thường xuyên, sát sao và chặt chẽ, có nơi, có lúc còn buông lỏng, đặc biệt trong giám sát ngành nghề kinh doanh nên chưa kịp thời phát hiện những yếu kém của DN. Từ đó chậm phát hiện và xử lý cán bộ quản lý DN có sai phạm. Thường các vụ việc chỉ được phát hiện sau khi thanh, kiểm tra hoặc có khiếu nại, tố cáo.

Trước thực tế trên, tại Hội nghị tổng kết 10 năm sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả DNNN do Văn phòng Chính phủ tổ chức mới đây, các đại biểu tham dự đều thừa nhận đã đến lúc DNNN cần được tái cơ cấu mới để có cơ cấu hợp lý hơn, bởi đây chính là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế. Và đương nhiên, việc tái cơ cấu DNNN mà trọng tâm là các tập đoàn kinh tế và TCT nhà nước phải gắn với quá trình tái cơ cấu nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng và ổn định kinh tế vĩ mô. Đồng thời tái cơ cấu DNNN sẽ được thực hiện theo ngành, lĩnh vực kinh doanh chứ không phân biệt cấp hay cơ quan quản lý.

Mai Phương
Chia sẻ:

doanh nghiệp - Sản phẩm - Dịch vụ Thông cáo báo chí Rao vặt

Các đơn vị thông tin của TTXVN