Những điều lý thú về lịch sử các thương hiệu đồng hồ Thụy Sĩ

Ngành công nghiệp đồng hồ Thụy Sĩ có doanh thu mỗi năm khoảng 20 tỉ USD nhờ xuất khẩu gần 30 triệu chiếc đồng hồ, tức là giá trị trung bình một chiếc đồng hồ gần 700 USD, đạt tỉ suất cao nhất thế giới.

Để xếp hạng một thương hiệu đồng hồ, người ta dựa vào nhiều yếu tố: lịch sử lâu đời, cung ít mà cầu nhiều, uy tín và danh tiếng, ý tưởng tiên phong và sáng tạo, tính độc lập khi sản xuất, tầm ảnh hưởng đến lịch sử ngành đồng hồ cũng như văn hoá thế giới, sự phức tạp tinh xảo của hệ thống bên trong, vật liệu và cách chế tạo, mức giá, giá khi bán lại và thị phần …

Tuy nhiên, với mỗi người, một tính năng hay một giá trị lịch sử đã có thể khiến một thương hiệu đồng hồ là số 1 trong mắt họ, và hơn thế nữa, những câu chuyện về ngành đồng hồ Thụy Sĩ đã biến dòng chữ “Swiss Made” thành thương hiệu cho cả ngành công nghiệp.

Những cái nhất và đầu tiên

Nếu ai quan tâm đến những thương hiệu hàng đầu thì Patek Philippe, Vacheron Constantin và Audemars Piguet có thể được coi như bộ ba “Holy Trinity” trong lĩnh vực đồng hồ của Thụy Sĩ.

Patek Philippe, được một người Ba Lan (Antoni Patek) và Pháp (Adrien Philippe) thành lập năm 1839 tại Geneva, luôn được đánh giá là hãng đồng hồ danh tiếng nhất thế giới.

Từ 1900 đến 1951, Patek Philippe đã giành hơn 300 giải nhất trong các cuộc thi về đồng hồ bấm giờ tại Đài quan sát thiên văn ở Geneva. Các đồng hồ đều được các thợ lành nghề làm thủ công và cần 9 tháng để hoàn thiện.

Những chiếc Patek Philippe trong thế giới đồng hồ được ví như những chiếc xe Rolls Royce trong thế giới ô tô. Patek Philippe đang giữ kỷ lục về mức giá cao nhất của đồng hồ đeo tay không nạm kim cương với chiếc Perpetual Calendar Ref. 1957 sản xuất năm 1943 giá 5,71 triệu USD và chiếc đồng hồ bỏ túi Henry Graves Jr. Supercomplication giá 23,98 triệu USD đấu giá năm 2014.

Chiếc Patek Philippe Ref.1527 Perpetual Calendar, 18k Rose gold. Nguồn: ablogtowatch.com

Vacheron Constantin, thành lập từ năm 1755, tự hào là doanh nghiệp sản xuất đồng hồ lâu đời nơi phát minh ra những cỗ máy hỗ trợ chế tác những bộ phận đồng hồ có độ chính xác cực cao và những chiếc máy vẽ để thu nhỏ các họa tiết vẽ trên mặt đồng hồ.

Từ thế kỷ 19, công ty đã sử dụng hệ số micromet (1/1 triệu m) làm đơn vị đo lường tiêu chuẩn cho công ty. Sự cầu kỳ trong thiết kế khiến mỗi chiếc đồng hồ được coi như một tuyệt tác nghệ thuật.

Một Chiếc Vacheron Constantin mẫu đặc biệt làm riêng cho 1 khách hàng.

Audemars Piguet thành lập từ năm 1875 được đánh giá cao bởi tiên phong trong ngành đồng hồ trong một số tính năng với những mốc lịch sử như: 1892 - đồng hồ có hệ thống báo chuông theo phút đầu tiên (Minute Repeater), 1921- đồng hồ có chức năng Jumping Hour đầu tiên (hiển thị giờ theo số trong 1 ô nhỏ như ngày nay các đồng hồ hay dùng để hiện ngày), 1946 -  đồng hồ đeo tay mỏng nhất thế giới,  2000 - đồng hồ có chức năng “Equation of Time” thể hiện độ chênh lêch giữa hệ thời gian tự nhiên theo mặt trời và hệ thời gian trung bình con người đang sử dụng. 2008 - đồng hồ đầu tiên có dùng vật liệu carbon cho vỏ ngoài và hệ thống chuyển động…

Audemars Piguet ngày nay được biết đến với bộ đồng hồ Royal Oak Collection và được những người nổi tiếng như Michael Schumacher và Arnold Schwarzenegger sử dụng.

Một chiếc Audemars Piguet Royal Oak Squelette. Nguồn: Internet

Nhóm “Big Three” trên phải kể đến các thương hiệu:

- Breguet chế tạo ra đồng hồ đeo tay đầu tiên trên thế giới.

- Jaeger LeCoultre biểu tượng của chất lượng khi có thời kỳ cung cấp hệ thống chuyển động cho cả Patek Philippe, Vacheron Constantin và Audemars Piguet.

- Rolex chế tạo ra chiếc đồng hồ tự động và chống nước đầu tiên.

- Blancpain được biết đến với dòng Fifty Fathoms đồng hồ lặn nổi tiếng cho lính thuỷ.

- Omega là chiếc đồng hồ lặn được sâu nhất hay bay cao nhất trên thế giới.

- Zenith
nổi tiếng nhờ độ chính xác với hơn 300 bằng sáng chế và 2.000 giải thưởng về đo thời gian, đồng hồ đầu tiên đo được 1/10 giây.

- Breitling
là lựa chọn số một cho các phi công vì phong cách thiết kế và độ chính xác với 100% đồng hồ được cấp phép của Contrôle Officiel Suisse des Chronomètres (COSC)…

Những giá trị lịch sử

Từ thế kỷ 18, Breguet, một người Thụy Sĩ sinh ra tại Neuchatel sang Pháp học việc. Trong khi những đồng nghiệp của ông làm những đồng hồ bấm giờ cho người đi biển thì ông đã khám phá ra một thị trường hoàn toàn mới: các khách hàng thuộc giới quý tộc, hoàng gia.

Vẻ ngoài kiểu cách và những chức năng mới đã khiến có người nói rằng: “Mang theo một chiếc đồng hồ Breguet khiến bạn có cảm giác sở hữu một bộ óc thiên tài trong túi”.

Ngay cả khi cách mạng tư sản Pháp diễn ra khiến cho những gì liên quan đến giới quý tộc trở nên nguy hiểm đến tính mạng, Breguet vẫn không ngừng được triết lý kinh doanh của mình: ông mang đến cho hoàng hậu Marie Antoinette một chiếc đồng hồ để bà xem giờ trong ngục tối, trước khi lên máy chém.

Chiếc đồng hồ đeo tay đầu tiên cũng được thiết kế bởi Breguet cho nữ hoàng xứ Naples – Caroline Murat vào năm 1810.  Những người nổi tiếng dùng nhãn hiệu đồng hồ này còn có Napoléon Bonaparte, hoàng hậu Josephine, hoàng đế Thổ nhĩ kỳ – Selim III, thủ tướng Anh Winston Churchill.

Một nhà phát minh đã đóng góp lớn cho cách mạng đo lường là LeCoultre. Ông là người phát minh ra thiết bị đo được micromet. LeCoultre cũng là người sở hữu rất nhiều bằng sáng chế.

Hãng Jaeger-LeCoultre nổi tiếng với những phát minh như Atmos, chiếc đồng hồ cơ vĩnh cửu thu năng lượng từ sự thay đổi nhiệt độ môi trường không bao giờ cần lên dây, hay chiếc Reverso đeo tay có thể lật mặt được thiết kế khi có người phàn nàn về mặt kính đồng hồ bị vỡ lúc chơi Polo. 

Mỗi chiếc Jaeger-LeCoultre phải trải qua 1.000 giờ kiểm tra trước khi đem ra thị trường. Jaeger-LeCoultre còn không gửi đồng hồ của hãng để lấy xác nhận của Contrôle Officiel Suisse des Chronomètres (COSC) bởi đơn giản là hệ thống kiểm định của hãng còn hơn cả COSC.

Trong quá khứ, thậm chí những hãng đồng hồ hàng đầu của Thụy Sĩ như Audemars Piguet, Breguet, Cartier, Vacheron Constantin and Patek Phillipe đã phải mua bộ phận chuyển động của Jaeger-LeCoultre.

Một chiếc Jaeger-LeCoultre Reverso có thể lật để xem 3 mặt đồng hồ. Nguồn: uniquewatchguide

Rolex, thương hiệu luôn trong top 5 trong số các nhãn đồng hồ cao cấp được thành lập bởi Wilsdorf & Davis, một hãng kinh doanh đồng hồ ở Anh.

Khi thấy nhưng chiếc áo gile đã trở nên lỗi thời, ông nhận ra rằng giai đoạn những chiếc đồng hồ bỏ túi sẽ chấm dứt và tập trung vào phát triển những chiếc đồng hồ đeo tay dù đó là quyết định rất khó khăn khi những chiếc đồng hồ đeo tay lúc bấy giờ được kiểm định tại Breguet trung bình có sai số 2h/ngày!

Năm 1910, Wilsdorf đã tự tin mang chiếc đồng hồ đeo tay đi kiểm định tại Văn phòng Cục thẩm định đồng hồ trong sự ngạc nhiên của các chuyên gia chuyên thẩm định đồng hồ bỏ túi và đi biển, và chiếc đồng hồ Rolex được cấp giấy phép chất lượng cho đồng hồ bấm giờ sau 2 tuần kiểm định. 

Sau Chiến tranh Thế giới thứ nhất, Wilsdorf chuyển công ty về Geneva, nơi ông tin là lý tưởng cho phát triển những chiếc đồng đồ tinh xảo, tối ưu.

Nếu ngày nay chúng ta thấy quảng cáo Rolex tràn lan với hình ảnh của môn thể thao kén người như golf, tennis, đua thuyền thì có thể ít người biết năm 1927, chiếc đồng hồ Rolex đã được dùng cho một người thợ đánh máy mất việc tên là Mercedes Gleize khi là người phụ nữ đầu tiên bơi qua 1 kênh đào ở Anh.

Sau hơn 10 giờ bơi, chiếc đồng hồ Rolex Oyster vẫn chỉ giờ chính xác. Đó một thắng lợi hoàn hảo cho thiết kế lớp vỏ bảo vệ chống xước và nước hình “Con hàu” của Rolex đăng ký bản quyền năm 1926.

Mercedes Gleize khi bơi qua kênh đào ở Anh với chiếc Rolex đeo trên cổ. 

Dù những phát minh công nghệ để đảm bảo độ chính xác, thêm tính năng cho những chiếc đồng hồ cơ là một cuộc đua không có hồi kết, thì bước đột phá đối với thị trường đồng hồ đeo tay lại do ảnh hưởng của hai cuộc chiến tranh thế giới.

Những chiếc đồng hồ đeo tay có thể cứu tính mạng của rất nhiều người. Nó là vật không thể thiếu để các y tá dùng để kiểm tra mạch đập của bệnh nhân, là vật để cho các binh sỹ, phi công xuất phát chính xác.

Việc quan sát chiếc kim dây di chuyển từ thời điểm phát sáng của quả đạn pháo đến lúc phát ra tiếng nổ giúp các binh sỹ ước tính khoảng cách kẻ thù.

Vì thế, chiến tranh kết thúc, đồng hồ đeo tay vẫn là biểu tượng mạnh mẽ, bản lĩnh của người đàn ông khiến ngành công nghiệp đồng hồ Thụy Sĩ tiếp tục phát triển.

Nếu nhiều người thấy Omega là chiếc đồng hồ được điệp viên 007 ưa chuộng trên màn ảnh từ những năm 90 lại đây thì không nhiều người để ý năm 1969, Omega đã ghi dấu ấn trong lịch sử hàng trăm năm của ngành đồng hồ khi hai phi hành gia Armstrong và Aldrin bước những “bước dài của nhân loại” trên mặt trăng với chiếc đồng hồ Omega Speedmaster trên tay mà bí quyết sản xuất được giữ nguyên đến nay.

Speedmaster Professional của Omega cũng là dòng duy nhất được chứng nhận cho các hoạt động ngoài không  gian(Extravehicular activity) của NASA.

Buzz Aldrin mang một chiếc Omega Speedmaster trên con tàu vũ trụ Apollo 11. Nguồn: Wikipedia

Đến trước những năm 70 , Thụy Sĩ đã thống lĩnh thị trường toàn cầu về đồng hồ đeo tay và chiếm một nửa doanh số đồng hồ trên khắp thế giới.

Cuộc khủng hoảng thạch anh và sự hồi sinh

Nét độc đáo của những nhãn hiệu đồng hồ Thụy Sĩ không chỉ là những giá trị lịch sử, những phát minh tiên phong, những kỷ lục mà còn là khả năng vượt qua những cơn khủng hoảng ảnh hưởng bởi những sự kiện chính trị (cách mạng tư sản, chiến tranh thế giới), kinh tế (sụp đổ Phố Wall thập niên 20, 30) và thay đổi công nghệ của thế giới.

Từ những năm 60 thế kỷ trước, phát hiện khả năng dao động điện từ của tinh thể thạch anh theo một tần số nhất định khi có dòng điện chạy qua, các hãng đồng hồ Thụy Sĩ đã tham gia ngay vào nghiên cứu phát triển công nghệ thạch anh cho đồng hồ đeo tay.

Sau 5 năm, dù có những thành công bước đầu, nhưng người Nhật, Mỹ cũng có những thành công tương tự. Và cuộc khủng hoảng mang tên “thạch anh” đối với ngành công nghiệp đồng hồ Thụy Sĩ diễn ra trong thập kỷ 70.

Dù dẫn đầu về công nghệ, nhưng những nhà sản xuất Thụy Sĩ không tính được yếu tố giá thành. Niềm tin của người dùng: “độ chính xác của một chiếc đồng hồ tương đương giá của nó” bị thay đổi hoàn toàn.

Các công ty Nhật Bản đã sản xuất ra những chiếc đồng hồ điện tử với độ chính xác hoàn hảo và giá thành cực rẻ đã sớm biến thời kỳ cực thịnh của thị trường đồng hồ cơ Thụy Sĩ về với quá khứ.

Chỉ với 10 năm từ 1973 đến 1983, hơn 65% nhân công trong số 90.000  người làm trong ngành đồng hồ Thụy Sĩ bị mất việc làm, hơn 1.000 nhà sản xuất bị đóng cửa. Năm 1980, Société Suisse pour l’Industrie Horlogère (SSHI) không còn khả năng trả lương cho nhân viên và phải xin những khoản vay từ ngân hàng.

Điều thú vị là một ngành công nghiệp có lúc lao đao mà giờ đây có giá trị trung bình xuất khẩu 1 chiếc đồng hồ gần 700 USD/cái lại được khôi phục từ một người nước ngoài và từ một thương hiệu đồng hồ có giá trung bình dưới 100 USD/cái: Swatch.

Nicolas Hayek là một doanh nhân người Liban, lúc đó đang là chủ công ty Hayek Engineering, sau trở thành CEO của SSHI, tiền thân của Swatch Group, người đã đưa ra nhiều ý tưởng, đặt lên bàn đàm phán đồng vốn của mình để thuyết phục hàng loạt ngân hàng và nhà đầu tư ra tay cứu vớt ngành công nghiệp đồng hồ đang hấp hối của Thụy Sĩ: “Nếu ngành công nghiệp, nơi quy tụ đặc trưng của đất nước và con người Thụy Sĩ – sự chính xác, lòng tin và giá trị – không chống nổi làn sóng cạnh tranh từ Nhật Bản thì chúng ta nên bỏ nốt đầu tư vào các ngành công nghiệp sản xuất động cơ và sản phẩm y dược”.

Swatch đã xuất hiện và thể hiện giá trị cạnh tranh đó:

- Nhắm vào yếu tố độ dày, sáng chế cũ được sử dụng lại để bộ phận vận hành gắn trực tiếp vào vỏ đồng hồ, loại bỏ lớp bảo vệ không cần thiết, để những chiếc đồng hồ có độ dày dưới 2mm đã xuất hiện trên thị trường. Swatch cũng tự nhận yếu tố phi thường của mình là công nghệ nhựa đặc biệt, đắt giá mà không ai, ngay cả đồng hồ Nhật, sao chép nổi.

- Khi độ chính xác không còn là vấn đề người sử dụng quan tâm trên đồng hồ thì Swatch định nghĩa lại đồng hồ như một “xu hướng thời gian” hay “phong cách sống”. Người đứng sau xu hướng thiết kế và định vị lại một loạt phân khúc của đồng hồ Swatch là Jean Robert, người đã từng biến Fogal từ một công ty sản phẩm đồ lót phụ nữ thông thường thành những sản phẩm tinh tế và gợi cảm khi thấy rằng  phụ nữ luôn sẵn sàng trả giá cao cho những bộ tranh phục phong cách khoác trên người ma-nơ-canh.

- Nhiều chiếc đồng hồ được bao bọc để chống nước, chống xước và che đi sự xấu xí của thiết bị điện tử thì Swatch đã nghĩ ra thiết kế với mặt sau trong suốt cho phép người dùng quan sát rõ cách vận hành của những bánh răng, ý tưởng mà về sau đến các hãng đồng hồ cao cấp cũng làm theo.

Một bộ sư tập đồng hồ Swatch. 

Với hơn 350 mẫu thiết kế, tủ trưng bày đồng hồ tại cửa hàng lại thay đổi theo 6 tháng đã giúp Swatch tiêu thụ 200 triệu chiếc đồng hồ tính đến năm 1996. Các thương hiệu như Breguet, Blancpain, Calvin Klein, Omega. Longines, Rado và Tissot lần lượt được thâu tóm và phát triển bởi tập đoàn Swatch. Trong đó Omega trở thành tài sản đắt giá nhất khi mang lại 34% doanh thu và 46% tổng lợi nhuận của tập đoàn. Tập đoàn Swatch được định giá 328 triệu CHF kể từ khi Nicolas Hayek dẫn dắt , thì năm 2015 có doanh thu hơn 9.5 tỉ USD và công ty được định giá 23.9 tỉ USD.

Xu hướng mới xuất hiện khi những đại gia kỳ cựu trong giới sản xuất mặt hàng xa xỉ, thời trang cũng tham gia vào lĩnh vực đồng hồ, sử dụng sức mạnh của marketing để chắp cánh cho những thương hiệu đồng hồ lớn và lâu đời của Thụy Sĩ. Tập đoàn LVMH thâu tóm TAG Heure, Ebel, Chaumet, Hublo. Tập đoàn Richemont mua lại IWC, Jaeger-LeCoultre. Cộng với sự trỗi dậy từ thị trường tiêu dùng phương Đông và các thị trường mới, ngành đồng hồ Thụy Sĩ đã thoát hiểm ngoạn mục và phát triển cho đến ngày nay.

Tồn tại với thời gian

Nhiều người đang cho rằng sẽ có một cuộc khủng hoảng kế tiếp cho đế chế  những nhãn hiệu đồng hồ Thụy Sĩ do: (a) xu hướng người dùng (b) xu hướng công nghệ, và (c) xu hướng lịch sử. Những chiếc smartphone đã càn quét thị trường máy ảnh số cỡ nhỏ và đang càn quét  thị trường đồng hồ đeo tay khi phần lớn thanh niên chỉ cần một chiếc mobile phone để xem giờ. Các nhà sản xuất thiết bị di động lớn đều đã nhảy vào lĩnh vực smartwatch.  Và ngành công nghiệp đồng hồ Thụy Sĩ đang quay lại lịch sử khi số lượng đồng hồ họ sản xuất ít đi và giá trị trung bình càng tăng: những tài năng, sáng chế lại chỉ phục vụ cho những tầng lớp giàu có trên thế giới, mầm mống dẫn tới những cuộc cách mạng và khủng hoảng trong quá khứ…

Tuy nhiên, hãy chấp nhận trên mặt đồng hồ sau con số 12 luôn là con số 1, thay vì “hãy để thời gian trả lời”, với sự bền bỉ, chính xác, tinh tế và sáng tạo, ngành đồng hồ Thụy Sĩ có thể tự hào nói rằng: Hãy để chúng tôi vận hành thời gian…

(Bài viết do anh Lưu Vĩnh Toàn, Tiến sĩ công nghệ thông tin làm việc tại công ty Squirro thực hiện dựa trên thông tin từ cuốn “Swiss Made” của tác giả James Breiding và các nguồn khác trên Internet).

Nguyễn Duy Thái (P/v TTXVN tại Thụy Sĩ)
Đồng hồ Thụy Sĩ nâng tỷ lệ nội địa hóa tối thiểu lên 60%
Đồng hồ Thụy Sĩ nâng tỷ lệ nội địa hóa tối thiểu lên 60%

Năm 2017, sau hơn 10 năm vận động hành lang và làm nóng nghị trường quốc hội Thụy Sĩ bằng các cuộc thảo luận, các hãng đồng hồ Thụy Sĩ đã có thêm một công cụ để bảo vệ danh tiếng của mình khi tỷ lệ nội địa hóa của đồng hồ Swiss made nay sẽ là tối thiểu 60%.

Chia sẻ:

doanh nghiệp - Sản phẩm - Dịch vụ Thông cáo báo chí Rao vặt

Các đơn vị thông tin của TTXVN