“Bố già” Al Capone

“Bố già” Al Capone - Kỳ cuối: Nhà tù - nơi phải đến của một “bố già”

Eliot Ness.

Ngay khi nhận nhiệm vụ tìm kiếm các chứng cứ để kết tội Al, Mellon vạch ra một kế hoạch gồm hai điểm: Thu thập chứng cứ cần thiết để chứng minh tội trốn thuế thu nhập và chứng cứ để truy tố Capone tội vi phạm các điều của Luật cấm sản xuất và buôn bán rượu lậu. Người được giao nhiệm vụ thu thập các bằng chứng về tội buôn bán rượu lậu là Eliot Ness, còn Elmer Irey thuộc đơn vị tình báo đặc biệt chỉ huy chiến dịch này. Lúc đầu, Capone không biết gì về chiến dịch đang được triển khai để chống lại hắn. Vào giữa tháng 5/1929, Capone đến dự một cuộc họp ở thành phố Atlantic. Đây là thời điểm mà các tay anh chị đủ loại đến từ mọi miền của nước Mỹ tụ họp và bàn về cơ hội hợp tác thay vì đưa nhau đến chỗ diệt vong.

Sau hội nghị, Capone đi xem phim ở Philadelphia. Khi bộ phim kết thúc, hai cảnh sát đã chờ sẵn hắn ở bên ngoài. Capone bị bắt và tống giam vì tội sở hữu vũ khí trái phép. Đầu tiên, hắn bị giam ở nhà tù quận Holmesburg rồi sau này được chuyển đến nhà tù Eastern Penitentiary và ở đó cho tến tận ngày 16/3/1930. Trong suốt thời gian ở tù, hắn trao quyền điều hành tổ chức tội phạm cho người anh trai tên là Ralph.

Lại một tai họa khác giáng xuống đầu Capone khi Ralph bị buộc tội trốn thuế vào tháng 10 năm đó. Đến giữa tháng 3/1930, Capone được trả tự do trước hạn vài tháng vì có thái độ cải tạo tốt. Cũng trong tháng đó, Elmer Irey đến Chicago gặp Arthur P. Madden để vạch ra kế hoạch tấn công của họ. Cả hai đều hiểu rằng muốn thành công thì phải có nội gián trong tổ chức của Capone. Irey nảy ra một ý nghĩ táo bạo: Cho hai nhân viên đóng giả là những tay găng-xtơ để trà trộn vào tổ chức của Capone. Hai người được chọn là Michael J. Malone (tên giả là De Angelo) và Graziano. Cả hai vào vai những tên lưu manh tầm thường ở khu vực Brooklyn; còn Wilson đóng vai trò là người giữ liên lạc với Graziano và De Angelo.

De Angelo đến thuê phòng tại khách sạn Lexington. Khoác trên mình bộ quần áo đắt tiền, anh lảng vảng ở khu vực quầy bar của khách sạn và lặng lẽ đọc báo. Rốt cục thì các thuộc hạ của Capone cũng đến làm quen và hỏi anh một số câu về nguồn gốc bản thân. Cuối cùng, Angelo được giao công việc chia bài ở một trong những sòng bạc của Cicero của Capone. Vài tháng sau, Graziano cũng được kết nạp vào tổ chức tội phạm của Capone. Anh được trao nhiệm vụ đi giao bia. Bằng nghiệp vụ điều tra, Eliot Ness và các cộng sự đã phát hiện ra nhiều điều bí mật trong tổ chức của Al Capone và khiến lĩnh vực kinh doanh rượu bia của Capone phải đóng cửa. Anh và các cộng sự cũng đã ghi lại được hàng nghìn vụ vi phạm luật cấm sản xuất và kinh doanh rượu lậu của Al.

Al Capone bị áp giải ra tòa.


Ngày 15/3/1931, một phiên tòa đã được mở để xét xử Capone với những chứng cứ thu thập được của năm 1924. Vài ngày trước đó, ngày 13/3, bồi thẩm đoàn đã bí mật họp bởi có thông tin rằng năm 1924 Al Capone đã trốn 32.488 USD. Bồi thẩm đoàn đưa ra một bản cáo trạng với Capone nhưng không công bố cho đến khi cuộc điều tra về giai đoạn năm 1925-1929 kết thúc.

Ngày 5/6/1931, bồi thẩm đoàn họp lại và đưa ra một bản cáo trạng buộc tội Capone đã 22 lần trốn thuế với tổng số tiền lên đến 200.000 USD. Một tuần sau, một bản cáo trạng thứ ba được đưa ra với những bằng chứng mà Ness và nhóm của anh công bố. Theo khung hình phạt, Capone có thể phải lãnh án 34 năm tù giam. Tuy nhiên, trước ngày xét xử, có thông tin cho rằng, Capone sẽ chỉ bị kết án từ 2 đến 5 năm tù. Dư luận băn khoăn, liệu có phải một số thành viên bồi thẩm đoàn đã nhận hối lộ? Hôm 16/6, Capone bước vào phòng xử án với tâm trạng khá vui. Khi Capone nhận tội, quan tòa Wilkerson hoãn phiên luận tội cho đến tận ngày 30/6 và ông có một bất ngờ nhỏ cho Al khi nói rằng: “Các bên liên quan trong một vụ hình sự không được ra điều kiện khi bước vào giai đoạn nghị án”. Đây là một cú sốc đối với Capone và hắn ta rút lại lời nhận tội. Trong khoảng thời gian chờ hoàn thiện hồ sơ vụ án, Capone được tận hưởng mùa hè tự do ở ngôi nhà cũ của hắn ở Lansing, Michigan.

Ngày 6/10/1931, 14 cảnh sát áp tải Capone đến phiên tòa. An ninh được thắt chặt. Capone được đưa theo một đường hầm đến một thang máy chở hàng. Hắn mặc bộ complê màu xanh sang trọng. Lần này hắn không đeo nhẫn hay bất kỳ đồ trang sức lòe loẹt nào.

Điều hành phiên tòa là viên chưởng lý George E. Q. Johnson. Danh sách thành viên bồi thẩm đoàn mới gồm toàn những người da trắng đến từ các vùng quê xa xôi. Không ai trong số những cái tên này đã từng xuất hiện trên danh sách nằm trong tay Capone. Họ được giữ kín cho đến tận phút chót, vì thế mà đám tay chân của Capone không thể tiếp cận được để “chạy án”.

Ngày 17/10, Johnson đọc bản cáo trạng cuối cùng cho các thành viên bồi thẩm đoàn nghe. Phiên tòa kéo dài cho đến tận tối. Sau 9 giờ tranh tụng, bồi thẩm đoàn kết thúc phần luận tội. Họ kết luận Capone phạm phải một số tội, nhưng trong các tội đó không có tội trốn thuế. Ngày thứ 7 tuần tiếp đó, quan tòa Wilkerson tuyên án Capone chịu mức án 11 năm tù, nộp phạt 50.000 USD, cộng với án phí là 30.000 USD. Phiên tòa không cho phép nộp tiền bảo lãnh và Capone bị tạm giam ở nhà tù quận Cook trước khi được đưa đến một nhà tù liên bang. Ban đầu, Al bị giam ở nhà tù US. Penitentiary ở Atlanta và hắn nhanh chóng trở thành tù nhân nổi tiếng nhất. Nhờ có tiền, ở đây hắn sống như một ông hoàng. Hắn duy trì cuộc sống thừa thãi này nhờ một cái cán vợt tennis rỗng, nơi hắn bí mật cất giấu tiền mặt.
Tháng 8/1934, Capone bị đưa đến nhà tù Alcatraz. Những ngày tháng tươi đẹp trong tù của hắn giờ đã không còn nữa. Capone bị biệt lập hoàn toàn. Hắn không biết điều gì đang diễn ra ở bên ngoài. Không có thư từ hay tin tức nào có thể bí mật tuồn vào được. Tuy nhiên, nhờ có thái độ cải tạo tích cực nên Al được giảm án xuống còn 6 năm 5 tháng. Năm cuối cùng chịu án tù, hắn phải vào bệnh viện để điều trị bệnh giang mai, vốn đã chuyển sang giai đoạn ba. Tháng 11/1939, Al được trả tự do. Mae, vợ Al, đưa hắn vào một bệnh viện ở Baltimore nơi hắn được chữa trị cho đến tận tháng 3/1940.
Trong những năm tháng sau đó, sức khỏe của Al dần dần suy sụp. Hắn sống lặng lẽ trong ngôi biệt thự xa hoa trên đảo Palm. Mae luôn ở bên Al cho đến tận lúc hắn trút hơi thở cuối cùng vào ngày 25/1/1947 ở tuổi 48.

Đình Vũ (tổng hợp)


 

Chia sẻ:

doanh nghiệp - Sản phẩm - Dịch vụ Thông cáo báo chí Rao vặt

Các đơn vị thông tin của TTXVN