12:22 07/12/2011

Gieo chữ giữa đại ngàn

Trên đỉnh núi cao lạnh giá, những thôn, bản nằm heo hút giữa núi rừng đang như có một sức sống mới bởi những giáo viên ngày đêm “cắm bản” để gieo cái chữ, đem ánh sáng tri thức đến cho con em đồng bào dân tộc Mông.

Tưởng chừng những cơn mưa tầm tã đã khiến chúng tôi một lần nữa lỡ hẹn với xã vùng cao Sùng Đô (huyện Văn Chấn, Yên Bái). Nhưng chúng tôi vẫn quyết tâm lên thăm các thầy cô giáo tại hai điểm trường lẻ Giàng Pằng và Làng Mảnh. Trên đỉnh núi cao lạnh giá, những thôn, bản nằm heo hút giữa núi rừng đang như có một sức sống mới bởi những giáo viên ngày đêm “cắm bản” để gieo cái chữ, đem ánh sáng tri thức đến cho con em đồng bào dân tộc Mông.

Gian nan con chữ

Cách trung tâm xã gần 30 km, muốn đến được Giàng Pằng, chúng tôi phải vượt qua địa phận xã Nậm Mười, rồi tiếp tục chinh phục con đèo dốc cheo leo giữa một bên là vách núi dựng đứng, một bên là vực sâu hun hút. Cung đường này theo nhiều người có lẽ chỉ dành cho những tay lái bạo gan nhất. Đồng hành cùng chúng tôi, thầy Hoàng Đình Tuyền, Hiệu trưởng Trường Tiểu học - Trung học cơ sở Sùng Đô nhớ lại: “Lần đầu lên đây, khoác ba lô đi bộ ròng rã gần ngày trời, đi mãi mà vẫn thấy mình ở giữa núi rừng mênh mông”.

Tình thầy trò vùng cao.


Nếu Giàng Pằng được coi là nơi cao nhất ở Sùng Đô với độ cao gần 2.000m so với mực nước biển thì Làng Mảnh lại là bản sâu, xa nhất ở nơi đây. Từ Giàng Pằng, phải đi bộ, băng rừng thì mới có thể đến được Làng Mảnh. Nhìn lá cờ đỏ bay phấp phới tại điểm trường Làng Mảnh ngay dưới chân núi mà đến nơi cũng mất ít nhất hai giờ đồng hồ. Thầy giáo Chu Thế Khánh, điểm trường Làng Mảnh nhớ về một thời cùng vợ vượt đèo đến lớp: “Có lần cuốc bộ lên trường, đến tối mà vẫn thấy đường ở trên đầu. Vừa đói, vừa lạnh, vợ chồng mình phải dừng lại nhóm lửa, bẻ bắp nướng ăn cho qua bữa rồi lại tiếp tục lên đường”.

Gian khổ là vậy nhưng các thầy cô nơi đây vẫn ngày đêm bám trường, bám lớp để gieo con chữ cho các học trò người Mông. Tiếp chúng tôi bằng ấm trà được hái từ những ngọn chè Shan tuyết có tuổi đời hàng trăm năm tuổi, thầy Nguyễn Tuấn Ba, giáo viên điểm trường lẻ Giàng Pằng, người đã có thâm niên 20 năm “cắm bản” chia sẻ: “Chỉ cần một trận mưa là nơi đây có thể bị chia cắt hoàn toàn. Hết đồ ăn dự trữ, các thầy cô phải tự xoay sở để sống trong tình trạng không điện lưới, không điện thoại. Mùa đông, thầy cô phải mặc rất nhiều quần áo vào người mà vẫn thấy lạnh, trong khi nhiều học sinh đến trường chỉ vận độc manh áo phong phanh, có những học sinh chỉ có duy nhất một chiếc áo mặc cho cả mùa đông và mùa hè. Nhìn chúng tái đi vì lạnh mà xót xa”.

Tại cả hai điểm trường: Giàng Pằng, Làng Mảnh, học sinh từ lớp 1 đến lớp 4 đều phải học ghép trong những căn phòng chật chội, thiếu thốn đủ thứ từ bàn ghế đến sách vở, đồ dùng học tập. Những lúc đó, thầy cô giáo lại dành dụm đồng lương ít ỏi mua vở, mua bút cho các em. Lặn lội lên vùng cao gieo chữ, khó khăn với nhiều giáo viên không chỉ là cảnh không đường, không điện, không nước mà còn là sự bất đồng về ngôn ngữ, phong tục và nỗi nhớ gia đình, bạn bè, người thân.

Tốt nghiệp Trường Cao đẳng Sư phạm Hà Tây, thầy Lê Minh Khôi, 24 tuổi mới lên nhận công tác tại điểm trường Làng Mảnh từ đầu năm học tâm sự: “Ngôn ngữ bất đồng nên nhiều khi thầy trò lên lớp chỉ có thể hiểu nhau thông qua những ký hiệu bằng tay. Tôi phải mày mò học tiếng từ chính những học trò của mình nên bây giờ cũng đã biết đôi chút”.

Quyết tâm bám trường

Gần 20 năm “cắm bản” gieo chữ ở vùng cao, thầy Chu Thế Khánh không thể nhớ hết đôi chân của mình đã vượt bao nhiêu đèo, lội bao nhiêu con suối, đến bao nhiêu hộ dân để vận động học sinh tới lớp, chỉ biết giờ đây thầy Khánh đã dựng nhà cùng vợ định cư tại điểm trường Làng Mảnh để tiếp tục bám trường, bám lớp để mang con chữ đến cho học trò người Mông.

Giống như người đi khai phá những vùng đất hoang, thầy Khánh vận động người dân cho con đi học chữ, dạy trẻ những thói quen sinh hoạt văn minh, thuyết phục người dân từ bỏ dần hủ tục lạc hậu, biết ăn cơm bằng đũa, giữ gìn vệ sinh chung…

Con đường đến trường của các thầy cô giáo luôn rình rập sự hiểm nguy.


Bí thư Chi bộ Hờ A Măng nắm chặt tay tôi, nói: “Làng Mảnh biết ơn các thầy cô giáo lắm. Nhờ thầy cô mà lũ trẻ được đến trường, được học cái chữ, biết nói tiếng phổ thông, biết chào hỏi người lớn… Người dân đã biết làm nhà vệ sinh, làm chuồng cho gia súc mà không thả rông như trước nữa. Đặc biệt, nghe lời thầy cô, nhiều gia đình đã biết khai hoang ruộng nước, trồng lúa 2 vụ nên cuộc sống đã bớt nghèo, bớt khổ hơn”.

Tôi vẫn còn nhớ những lời chia sẻ của anh Cứ A Sùng, Chủ tịch UBND xã Sùng Đô: “Giao thông đi lại khó khăn cộng với những hạn chế về phong tục, tập quán cùng với sự thiếu hiểu biết, không biết áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật đã khiến cho người dân Giàng Pằng và Làng Mảnh rơi vào diện khó khăn nhất của xã”. Ấy vậy mà từ khi có các thầy cô “cắm bản” dạy cho “con chữ”, cách áp dụng tiến bộ kỹ thuật, đồng bào đã biết phát huy giá trị kinh tế từ 12 ha thảo quả, 22 ha chè Shan tuyết để có thêm thu nhập phục vụ cuộc sống. Đặc biệt, từ chỉ biết làm nương rẫy, giờ đây Giàng Pằng và Làng Mảnh đã có gần 20 ha lúa nước 2 vụ với nhiều giống lúa mới năng suất cao như: Tỷ lệ hộ nghèo giảm xuống còn 50% ở Giàng Pằng và 70% ở Làng Mảnh.

Một lớp học ghép của học trò dân tộc Mông ở điểm trường Giàng Pằng.


Mặc dù, tại những điểm trường Giàng Pằng, Làng Mảnh hầu hết các thầy cô đều không hề biết đến không khí ngày lễ 20/11, không hề nhận được một bông hoa hay lời chúc nào từ phía người dân cũng như học sinh, niềm vui với họ chính là được nhìn thấy học sinh đến lớp đông đủ, được nghe những tiếng ê a tập đọc của lũ trẻ vang khắp bản làng và đâu đó trên những con đường họ qua có những đứa trẻ trưởng thành từ những lớp học ghép.

Thầy giáo Khánh vỗ vai Hờ A Bùa, Bí thư Đoàn xã Sùng Đô hãnh diện nói: “Niềm vui của chúng tôi là được thấy tất cả con em đồng bào nơi đây sẽ trưởng thành như em Bùa đây”. Đúng như lời khẳng định của thầy Hoàng Đình Tuyền, chỉ có tình thương, sự cảm thông sâu sắc với những đứa trẻ vùng cao mới giúp các thầy cô giáo có nghị lực ở lại.

Thầy Nguyễn Tuấn Ba tâm sự: “Gần 20 năm gắn bó với vùng cao là ngần ấy thời gian phải xa gia đình, vợ con, nhiều lúc cũng muốn xin về đồng bằng cho gần người thân nhưng nhìn những đứa trẻ lặn lội đường xa, phong phanh áo mỏng đến lớp mà mình sợ khổ, sợ khó bỏ về thì còn đâu cái tâm của người thầy giáo”. Đáng trân trọng và khâm phục hơn là ý chí, nghị lực của những cô giáo trẻ. Ở cái tuổi 23 đương thì xuân sắc, cô Nguyễn Thị Yến, quê xã Nghĩa Tâm (Văn Chấn) đã gác lại sau lưng nỗi nhớ gia đình, tình nguyện lên gieo chữ giữa điệp trùng núi non Sùng Đô. “Nhiều khi nhớ nhà, chỉ biết vùi đầu trong chăn mà khóc nhưng sự quý mến chân thành của người dân nơi đây đã giúp em có thêm nghị lực để bước tiếp”, cô Yến tâm sự.

Có hàng trăm nỗi khổ không thể nói được bằng lời của các thầy cô giáo “cắm bản” nơi vùng cao đặc biệt khó khăn này. Nhiều thầy cô giáo trẻ đã ”quên” tuổi thanh xuân, tình nguyện lên đây “cắm bản” giữa núi rừng, phải đối mặt với nhiều khó khăn, vất vả, thiếu thốn, thậm chí nhiều người vẫn chỉ là giáo viên hợp đồng với đồng lương phụ cấp ít ỏi nhưng họ vẫn không nản lòng vì đàn em thân yêu mà vẫn ngày đêm miệt mài gieo từng con chữ giữa đại ngàn núi rừng Sùng Đô hôm nay.

Gia Bảo